Tại Khoản 2 Điều 95 Luật HNGĐ quy định: “ Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị, bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”
Điều 25 luật Hôn Nhân Gia Đình quy định: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”.
Theo quy định nêu trên, nếu hai vợ chồng có khoản nợ đó là nợ chung của vợ chồng thì cả hai vợ chồng có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm. Sau khi thực hiện xong toàn bộ nghĩa vụ, số tài sản còn lại sẽ được chia theo quy định của pháp luật. Trường hợp, không chứng minh được một số khoản nợ vợ/chồng vay là nợ chung thì khoản nợ đó sẽ là nợ riêng vợ/chồng sẽ không phải liên đới thực hiện nghĩa vụ trả khoản nợ riêng đó.