Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia

Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia

I. Khái niệm quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia

Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia là quyền của quốc gia không phải chịu sự  tài phán của các cơ quan tư pháp của quốc gia khác trong quá trình giải quyết vụ việc phát sinh từ quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.

II. Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia

Về mặt nội dung, quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia bao gồm các quyền sau 1: Thứ nhất, là quyền miễn trừ tài phán tại bất cứ quốc gia nào. Nội dung quyền này thể hiện trong lĩnh vực dân sự nếu không có sự đồng ý của quốc gia thì không có một tòa án quốc gia nước ngoài nào có thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ kiện mà quốc gia là bị đơn. Những tranh chấp đó phải được giải quyết thông qua các phương thức thương lượng trực tiếp hoặc con đường ngoại giao, trừ khi quốc gia tuyên bố từ bỏ quyền của mình.

Thứ hai, là quyền miễn trừ đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của quốc gia. Nội dung này thể hiện tài sản của quốc gia là bất khả xâm phạm, nếu không có sự đồng ý của quốc gia là chủ sở hữu của tài sản thì các quốc gia, tổ chức và cá nhân nước ngoài không được thi hành bất kỳ biện pháp cưỡng chế nào như bắt giữ, tịch thu, bán đấu giá,… đối với tài sản của quốc gia đó.

Thứ ba, là quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo thi hành quyết định của tòa án trong trường hợp quốc gia đồng ý cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài kiện, đồng ý cho tòa án xét xử. Trong trường hợp quốc gia đồng ý cho một tòa án nước ngoài giải quyết một tranh chấp mà quốc gia là một bên tham gia và nếu quốc gia là bên thua kiện thì bản án của tòa án nước ngoài đó cũng phải được quốc gia tự nguyện thi hành. Nếu không có sự đồng ý của quốc gia thì không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt giữ, tịch thu tài sản của quốc gia nhằm cưỡng chế thi hành bản án đó. Ngay cả khi quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ xét xử thì quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của tòa án vẫn phải được tôn trọng, việc thi hành phải tuân theo các thể thức và trình tự tố tụng nhất định phù hợp với thông lệ quốc tế về việc này.

Do những thay đổi và yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, quyền miễn trừ của quốc gia đã có những thay đổi nhất định trong quá trình áp dụng. Vì vậy, hiện nay đang tồn tại hai học thuyết về quyền này: Thuyết về quyền miễn trừ tuyệt đối và thuyết về quyền miễn trừ tương đối.

Quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối cho phép quốc gia được hưởng quyền miễn trừ trong tất cả lĩnh vực của quan hệ dân sự mà quốc gia tham gia và trong bất kỳ trường hợp nào. Trong khi đó quyền miễn trừ tư pháp tương đối ghi nhận quốc gia sẽ được hưởng quyền miễn trừ trong các quan hệ dân sự nhưng không phải luôn luôn được hưởng, trong một số trường hợp quốc gia sẽ không được hưởng quyền miễn trừ mà sẽ tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài với tư cách bình đẳng với các chủ thể khác.

III. Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia theo quy định của pháp luật Việt Nam

Khác với một số quốc gia trên thế giới, Việt Nam chưa có văn bản quy phạm riêng quy định về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia nước ngoài, tuy nhiên nguyên tắc chung được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam là: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì vụ việc dân sự có liên quan đến cơ quan, tổ chức, cá nhân đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao” (khoản 4 Điều 2 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Quy định này ghi nhận quyền miễn trừ ngoại giao, lãnh sự đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, mà không quy định trực tiếp về miễn trừ quốc gia, tuy nhiên quy định này đã  cho thấy tại Việt Nam quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia nước ngoài luôn được pháp luật Việt Nam ghi nhận. Đối với nhân viên ngoại giao và nhân viên lãnh sự, quyền miễn trừ của họ được thực hiện theo các quy định của Công ước Vienna 1961, Công ước Vienna 1963 mà Việt Nam là thành viên.

Điều 97 Bộ luật dân sự 2015 khi quy định địa vị pháp lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các quan hệ tư pháp quốc tế mà Nhà nước Việt Nam, các cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương trong quan hệ dân sự đã khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương khi tham gia quan hệ dân sự thì bình đẳng với các chủ thể khác và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định tại Điều 99 và Điều 100 của Bộ luật này. Quy định này tạo ra một nguyên tắc mang tính bình đẳng cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ dân sự.

Về trách nhiệm của nhà nước khi tham gia các quan hệ dân sự được quy định rõ tại Điều 99 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của mình bằng tài sản mà mình là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, trừ trường hợp tài sản đã được chuyển giao cho pháp nhân. Đối với loại tài sản mà Nhà nước đã chuyển giao cho pháp nhân, pháp nhân sẽ phải tự chịu trách nhiệm. Pháp nhân do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương thành lập không chịu trách nhiệm về nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ dân sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương không chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của pháp nhân do mình thành lập, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, trừ trường hợp Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương bảo lãnh cho nghĩa vụ dân sự của pháp nhân này theo quy định của pháp luật. Quy định này cho thấy sự phân biệt rõ ràng trách nhiệm của nhà nước và các chủ thể khác khi tham gia quan hệ dân sự, tạo ra sự yên tâm, chủ động cho các chủ thể khi xác lập các giao dịch dân sự đối với nhà nước.

Về nguyên tắc, quyền miễn trừ tài sản của nhà nước chỉ đặt ra đối với tài sản do nhà nước là chủ sở hữu và quản lí trực tiếp. Tài sản do nhà nước là chủ sở hữu và quản lí trực tiếp bao gồm: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý (Điều 197 Bộ luật dân sự năm 2015). Quyền miễn trừ tài sản của nhà nước không đặt ra đối với tài sản của các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước). Thực tế cho thấy, hiện nay khi các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả doanh nghiệp nhà nước) khi tham gia vào các giao dịch dân sự theo nghĩa rộng với các chủ thể nước ngoài, nếu vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết thì các chủ thể nước ngoài đều có thể khởi kiện các doanh nghiệp đó ra tòa án nước ngoài và áp dụng các biện pháp tịch thu, bắt giữ tài sản của doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài để bảo đảm cho vụ kiện.

Để khẳng định trách nhiệm dân sự của nhà nước khi tham gia quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài, Điiều 100 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:

1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự do mình xác lập với nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài trong trường hợp sau đây:

a) Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về việc từ bỏ quyền miễn trừ;

b) Các bên trong quan hệ dân sự có thỏa thuận từ bỏ quyền miễn trừ;

c) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương từ bỏ quyền miễn trừ.

2. Trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của nhà nước, cơ quan nhà nước của nước ngoài khi tham gia quan hệ dân sự với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương, pháp nhân, cá nhân Việt Nam được áp dụng tương tự khoản 1 Điều này.

Có thể thấy, Điều 100 Bộ luật dân sự năm 2015 là quy định có liên quan mật thiết nhất về vấn đề miễn trừ quốc gia. Quy định tại Khoản 1 Điều 100 cho thấy nhà nước Việt Nam sẽ đương nhiên được hưởng quyền miễn trừ, trừ trường hợp có tuyên bố hoặc thỏa thuận về việc từ bỏ quyền miễn trừ thì mới phải chịu trách nhiệm dân sự. Tương tự, Khoản 2 Điều 100 cũng quy định các quốc gia nước ngoài cũng sẽ tự động được hưởng quyền miễn trừ, chỉ trừ khi họ có tuyên bố hoặc thỏa thuận với Việt Nam về việc từ bỏ quyền miễn trừ đó.

Thực tiễn hiện nay cho thấy, hầu hết các điều ước quốc tế trong lĩnh vực dân sự, kinh tế – thương mại mà Việt Nam tham gia kí kết như: các hiệp định khuyến khích đầu tư, hiệp định thương mại,…Chính Phủ Việt Nam đã tự nguyện khước từ quyền miễn trừ tư pháp bằng việc cam kết sẽ giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa chính phủ, các cơ quan của chính phủ với các đối tác nước ngoài thông qua các cơ quan tài phán, hoặc các thiết chế tương đương theo quy định của điều ước quốc tế. Tương tự như vậy, đối với các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể nước ngoài với các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam, các bên có thể khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài.

Trong trường hợp khước từ quyền miễn trừ tư pháp, Nhà nước Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương sẽ bình đẳng như các chủ thể khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về nghĩa vụ dân sự do mình xác lập với nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài. Điều này góp phần thúc đẩy các giao dịch dân sự phát triển, đảm bảo sự công bằng, an âm cho nhà đầu tư, tạo điều kiện phát triển kinh tế cho đất nước cũng như thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh tế tại Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển chung của tư pháp quốc tế. Điều 100 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định trách nhiệm của Nhà nước khi tham gia quan hệ dân sự mà không trực tiếp quy định về miễn trừ quốc gia, tuy nhiên nội dung quy định này đã phần nào thể hiện Việt Nam đang theo mô hình miễn trừ tuyệt đối. Bởi vì quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia là quyền chứ không phải nghĩa vụ của quốc gia, và quốc gia có bị tòa án nước khác xét xử hay không thì phải dựa trên pháp luật của quốc gia nơi có tòa án đó. Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà quốc gia có thể từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp của mình để bình đẳng với các chủ thể khác trong các quan hệ dân sự, việc từ bỏ quyền miễn trừ này là tự nguyện của quốc gia. Điều 100 đã quy định rõ việc nhà nước Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương chịu trách nhiệm dân sự với các chủ thể nước ngoài khi việc từ bỏ quyền miễn trừ được thể hiện bằng một trong các cách thức sau: Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về việc từ bỏ quyền miễn trừ; Các bên trong quan hệ dân sự có thỏa thuận từ bỏ quyền miễn trừ; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương từ bỏ quyền miễn trừ. Và trách nhiệm dân sự của nhà nước, cơ quan nhà nước nước ngoài cũng tương tự với nhà nước, cơ quan nhà nước Việt Nam.

Khoản 1 Điều 472 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định trường hợp Tòa án Việt Nam phải trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam nhưng bị đơn được hưởng quyền miễn trừ tư pháp. Quy định này khá chung chung, chưa có điều khoản nào giải thích thế nào là quyền miễn trừ tư pháp, chủ thể nào được hưởng quyền miễn trừ và miễn trừ trong trường hợp nào.

Có thể thấy, bản chất của quyền miễn trừ tư pháp quốc gia là việc quốc gia bị không bị xét xử bởi tòa án của quốc gia khác. Do đó, việc tòa án của quốc gia này có thẩm quyền xét xử quốc gia khác hay không phải được quy định tại pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định nào cụ thể về quyền miễn trừ tư pháp quốc gia được ghi nhận tại Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy việc hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về quyền miễn trừ tư pháp là rất cần thiết bởi một số lý do sau:

Thứ nhất, cần thiết phải làm rõ nội dung quyền miễn trừ tư pháp trong quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 472 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 làm cơ sở cho thẩm phán quyết định trong trường hợp nào sẽ được coi là bị đơn được hưởng quyền miễn trừ quốc gia để trả lại đơn kiện.

Thứ hai, đảm bảo cho thủ tục giải quyết tranh chấp liên quan đến các quốc gia được công bằng, bình đẳng hơn.

Pháp luật dân sự giải quyết các tranh chấp tài sản

Pháp luật dân sự giải quyết các tranh chấp tài sản

Áp dụng pháp luật dân sự giải quyết các tranh chấp tài sản

Tranh chấp tài sản thường rất đa dạng. Việc đổi mới các quy định pháp luật dân sự đã giúp áp dụng giải quyết thuận tiện, nhanh chóng tranh chấp tài sản nhưng vẫn bộc lộ nhiều điểm bất cập.

Những điểm bất cập trong việc áp dụng pháp luật dân sự giải quyết tranh chấp về tài sản bao gồm:

Thứ nhất, việc áp dụng các văn bản hướng dẫn thi hành luật khi đã hết hiệu lực nhưng chưa có văn bản thay thế:

Theo khoản 3 Điều 150 BLDS năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Quy định này dẫn đến cách hiểu: Vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện là một trong các điều kiện khởi kiện vụ án dân sự. Ý kiến cho rằng: “Pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện vừa có ý nghĩa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân không bị xâm phạm vừa bảo đảm việc giải quyết vụ án dân sự được thuận lợi. Do đó, việc khởi kiện vụ án dân sự phải được tiến hành trong thời hiệu khởi kiện như quy định tại các điều 184, 185 BLTTDS năm 2015”.

Tuy nhiên, theo em, để xác định một tranh chấp dân sự còn hay hết thời hiệu khởi kiện cần phải xét đến các trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện. Trong khi đó, khi khởi kiện, người khởi kiện chỉ mới cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ ban đầu để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án theo Điều 96 BLTTDS năm 2015. Do đó, theo khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015, Tòa án sẽ không trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, tức là khi xem xét thụ lý vụ án dân sự, Tòa án chưa xét đến điều kiện về thời hiệu khởi kiện. Sau khi thụ lý vụ án, các đương sự cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ, Tòa án thu thập thêm chứng cứ mà không có căn cứ chứng minh còn thời hiệu khởi kiện và đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án thì Tòa án sẽ áp dụng điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

Giả sử, việc xác định hậu quả pháp lý đối với trường hợp hợp đồng vay tài sản đã hết thời hiệu khởi kiện:

Theo quy định tại Điều 427 BLDS năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là 02 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm. Điều 429 BLDS năm 2015 quy định thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Bộ luật Dân sự năm 2005 và BLDS năm 2015 đều quy định yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, trừ trường hợp BLDS, luật khác có liên quan quy định khác. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012 hướng dẫn: “Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về đòi lại tài sản, đòi lại quyền sử dụng đất do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện”.

Ví dụ 1: Ngày 01/01/2019, A cho B vay 500 triệu đồng, thời hạn vay là 01 năm. Đến ngày 01/01/2020, B không trả tiền gốc và tiền lãi. Đến ngày 02/4/2022, A khởi kiện yêu cầu buộc B trả lại khoản tiền gốc và tiền lãi. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi thì Tòa án không giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung”.

Theo Điều 469 BLDS năm 1995, Điều 472 BLDS năm 2005 và Điều 464 BLDS năm 2015 đều quy định: “Bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó”. Do đó, kể từ thời điểm bên vay nhận tiền thì bên vay đã trở thành chủ sở hữu đối với số tiền vay và người cho vay không còn quyền sở hữu đối với số tiền đó. Vì vậy, hướng dẫn trên cho rằng tranh chấp hợp đồng vay tài sản là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về đòi lại tài sản để không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với phần nợ gốc có phần khiên cưỡng.

Thứ hai, ngoài bất cập nêu ở trên, việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập bằng văn bản trước ngày 01/07/2004 hiện nay cũng tồn tại bất cập nhất định.

Thứ ba, việc phân chia tài sản chung khi ly hôn là vấn đề pháp lý thường xuyên phải giải quyết nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập. Khi giải quyết loại vụ việc này, các sai phạm của Tòa án chủ yếu liên quan đến vấn đề phân chia tỷ lệ tài sản chung, nguồn gốc hình thành, công sức đóng góp vào tài sản chung, ngoài ra, còn có các sai phạm liên quan đến xác định án phí khi phân chia tài sản chung, xác định những thành phần người tham gia tố tụng có liên quan để đưa vào giải quyết trong vụ án, vi phạm về thời hạn gửi Bản án, quyết định,…. Khó khăn lớn nhất trong phân chia tài sản chung khi ly hôn là việc vận dụng các nguyên tắc chia tài sản chung sao cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể, đảm bảo được quyền, lợi ích của vợ chồng và những người có liên quan. Việc đánh giá và quy đổi một vấn đề trừu tượng như công sức đóng góp thành một khối lượng tài sản cụ thể là hết sức khó khăn, còn phụ thuộc vào sự đánh giá, nhận thức pháp luật của Hội đồng xét xử.

Có thể nói, nguyên nhân dẫn tới những khó khăn, vướng mắc như trên, là do các quy định của Luật Hôn nhân gia đình và Bộ luật Dân sự còn chưa chặt chẽ, chưa cụ thể, thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành, quy định chưa rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.

Như vậy, có thể thấy từ việc áp dụng pháp luật dân sự chung, Luật Đất đai hay Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết các tranh chấp dân sự vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, cần có những quy định cụ thể hơn, thống nhất cách hiểu, cách áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát, Toà án có thẩm quyền.

Áp dụng pháp luật dân sự giải quyết tranh chấp về tài sản

Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia

I. Thực tiễn áp dụng pháp luật dân sự giải quyết tranh chấp về tài sản liên quan đến hợp đồng dân sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 401 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 thì: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác”. Quy định này về cơ bản giống với quy định của BLDS 2005 (Điều 405 BLDS) và BLDS 1995 (khoản 3 Điều 404). Một điểm khác biệt “nhỏ” duy nhất là BLDS 1995 và 2005 đều quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có thể do “Pháp luật có quy định khác”, nhưng BLDS 2015 chỉ quy định “Luật liên quan có quy định khác”. Với quy định này, có hai thời điểm chúng ta cần lưu ý là thời điểm “giao kết hợp đồng” và thời điểm “có hiệu lực của hợp đồng”. Nguyên tắc được thiết lập trong quy định này là, khi các bên không có thỏa thuận và luật không có quy định khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, thì hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết.

  • Thời điểm giao kết hợp đồng:

Theo quy định tại Điều 400 BLDS về thời điểm giao kết hợp đồng:

“1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.

  1. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó.
  2. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
  3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.

Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3 Điều này.”

Mỗi hình thức hợp đồng có những thời điểm giao kết khác nhau. Trường hợp các bên không trực tiếp thỏa thuận, ký kết hợp đồng mà bên đề nghị giao kết gửi văn bản đề nghị giao kết (hoặc dự thảo hợp đồng) cho bên được đề nghị giao kết, thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định là thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết (khoản 1 Điều 400 BLDS); Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn, thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó (khoản 2 Điều 400 BLDS). Đối với trường hợp các bên thỏa thuận trực tiếp bằng lời nói (bằng miệng), thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng (khoản 3, Điều 400 BLDS). Đối với hợp đồng bằng văn bản và các bên trực tiếp thỏa thuận, giao kết, thì thời điểm giao kết hợp đồng này là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản (khoản 4 Điều 400BLDS).

Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản, tức là một hợp đồng được xác lập bằng nhiều hình thức khác nhau, thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng (theo hợp đồng bằng lời nói). Đây là quy định mới so với BLDS 2005, quy định bổ sung này nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn giao kết hợp đồng.

  • Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do các bên thỏa thuận:

Một nguyên tắc quan trọng và chủ chốt của pháp luật dân sự đó là nguyên tắc tự do thỏa thuận nên các bên tham gia giao kết hợp đồng có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lự của hợp đồng. Tuy nhiên, sự thỏa thuận đó không được trái luật hoặc trái với bản chất của hợp đồng. Thực tiễn đàm phán, ký kết hợp đồng, trong rất nhiều trường hợp các bên thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phải là thời điểm các bên giao kết.

  • Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do pháp luật quy định:

Trong một số trường hợp và đối với với một số tài sản đặc thù, pháp luật có sự kiểm soát chặt chẽ về hình thức của hợp đồng phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Từ đó, phát sinh ra một số quy định chồng chéo của các luật chuyên ngành so với quy định của BLDS.

Thực tế giải quyết tranh chấp các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thời gian trước đây tồn tại một vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Theo quy định tại Điều 146 khoản 4 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003, hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.

Như vậy, theo quy định nêu trên thì thời điểm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật là thời điểm đăng ký tại cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất được hiểu như thể nào? ngay tại thời điểm Văn phòng đăng ký tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay thời điểm Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục đăng ký, trước bạ sang tên?

Vấn đề này đã rõ hơn trong Luật Đất đai 2013, vì khoản 3 Điều 188 đã quy định rõ, hợp đồng này có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. Và với quy định này thì không thể hiểu thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là thời điểm cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ mà phải là thời điểm “đăng ký vào sổ địa chính”.

Ngoài ra, pháp luật còn có quy định cụ thể về thời điểm có hiệu lực đối với một số loại hợp đồng:

Luật Nhà ở năm 2014 quy định: trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng. Đối với các giao dịch này thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng (khoản 1 Điều 122). Đối với trường hợp tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương; mua bán, cho thuê mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở phục vụ tái định cư; góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ chức; cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở thì không bắt buộc phải công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp các bên có nhu cầu. Đối với các giao dịch này thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là do các bên thỏa thuận; trường hợp các bên không có thỏa thuận thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm ký kết hợp đồng (khoản 2 Điều 122).

Đối với giao dịch bảo đảm thì Bộ luật dân sự hiện hành quy định rõ hai loại thời điểm có hiệu lực: Thời điểm có hiệu lực của giao dịch bảo đảm (Điều 298) và thời điểm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba (khoản 1 Điều 297), theo các quy định này thì thời điểm có hiệu lực của giao dịch bảo đảm cũng tuân theo những quy định chung về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng (vì bản thân giao dịch bảo đảm là một hợp đồng), tức là có thể có hiệu lực từ thời điểm giao kết, theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 310; khoản 1 Điều 319). Về thời điểm giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì Luật dân sự cũng quy định rõ là kể từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm (khoản 2 Điều 310; khoản 2 Điều 319).

Đối với các hợp đồng có công chứng thì pháp luật về công chứng quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng như sau: “Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng” (khoản 1 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014).

Vậy, theo các quy định trên, các hợp đồng liên quan đến nhà đất đang tồn tại 03 thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: thời điểm bên sau cùng ký vào hợp đồng (BLDS), thời điểm đăng ký vào sổ địa chính (Luật Đất đai) và thời điểm công chứng (Luật Công chứng). Việc quy định chồng chéo mà mâu thuẫn giữa quy định của Bộ luật dân sự và pháp luật chuyên ngành dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp về tài sản liên quan đến hợp đồng dân sự.

II. Thực tiễn áp dụng pháp luật dân sự giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng vay tài sản:

1. Định nghĩa Hợp đồng vay tài sản:

Bộ luật dân sự năm 2015 đã có nhiều quy định mới về hợp đồng vay tài sản, đây là quy định mới theo hướng linh hoạt, mở rộng quyền năng cho các chủ thể trong quan hệ dân sự. Bên cạnh rất nhiều ưu điểm còn tồn đọng một số hạn chế làm cho các chủ thể khi lựa chọn tham gia hợp đồng dân sự cảm thấy lo lắng về những rủi ro có thể xảy ra …

Theo quy định tại Điều 463: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chi trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Theo đó, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có mục đích chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vay. Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vay là thời điểm bên vay nhận được tài sản đó. Khi bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay, bên vay sẽ có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt số tài sản đã vay, trừ trường hợp có điều kiện của bên cho vay về sử dụng tài sản.

Từ định nghĩa hợp đồng vay theo Điều 463 BLDS 2015 cho thấy đối tượng của hợp đồng vay tài sản là tài sản. Theo Điều 105 BLDS 2015, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Trong hợp đồng vay, nghĩa vụ của bên vay là hoàn trả lại cho bên cho vay tài sản cùng loại, theo đúng số lượng, chất lượng khi đến thời hạn trả. Theo Điều 113 BLDS 2015, vật cùng loại là vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng đơn vị đo lường. Trong khi đó, bất động sản theo quy định tại Điều 107 BLDS 2015 là những vật đặc định, vì thế không thể trả lại một bất động sản cùng loại với bất động sản đã vay. Do đó, đã loại bỏ đối tượng bất động sản trong hợp đồng vay tài sản.

Hơn nữa, trên thực tế đối tượng của hợp đồng vay tài sản thường là tiền vì tiền là tài sản trao đổi ngang giá chung cho mọi hàng hóa, tiện lợi cho việc trao đổi để thỏa mãn các nhu cầu về sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và tiện lợi cho việc thành toán khi trả nợ. Tuy nhiên, thực tế có nhiều tài sản là đối tượng của hợp đồng vay tài sản theo BLDS nhưng lại mâu thuẫn với một số văn bản pháp luật khác. Theo quy định tại BLDS năm 2015, đối tượng của hợp đồng vay tài sản bao gồm tiền, mà ngoại tệ cũng là tiền. Tuy nhiên, ngoại tệ cũng là một loại ngoại hối. Tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2013 quy định: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Có thể thấy ngoại tệ là một loại ngoại hối hạn chế sử dụng. Trường hợp muốn sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch hay thanh toán phải thuộc đối tượng đã được pháp luật cho phép. Mà hợp đồng vay tài sản cũng là một loại giao dịch. Từ đây dẫn đến mâu thuẫn giữa Bộ luật Dân sự với Pháp lệnh Ngoại hối.

2. Tính lãi suất trong Hợp đồng vay tài sản:

Theo Điều 468 BLDS 2015, lãi suất được quy định như sau:

“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

  1. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định

rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

Quy định về lãi suất trong BLDS năm 2015 là căn cứ để đảm bảo quyền lợi của các bên trong hợp đồng vay tài sản. Trong đó, bên cho vay được đảm bảo quyền lợi về mục đích sinh lời khi cho vay tài sản của mình, còn bên vay được đảm bảo được tính lãi suất đúng theo quy định của pháp luật. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Tức lãi suất cho vay theo quy định tại BLDS năm 2015 chỉ áp mức lãi suất trần cố định 20%, không dao động tăng, giảm hay phụ thuộc vào quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Theo Điều 463 BLDS năm 2015, hợp đồng vay được chia thành hai loại: vay có lãi và vay không có lãi. Vay không lãi xảy ra khi các bên trong hợp đồng vay tài sản không thoả thuận và pháp luật không có quy định lãi suất đối với hợp đồng vay tài sản. Vay có lãi xảy ra khi các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.

Theo đó, các bên có quyền thoả thuận lãi suất đối với hợp đồng vay tài sản. Song cả 09 điều luật về hợp đồng vay tài sản trong BLDS không có quy định về thời điểm thoả thuận và hình thức thoả thuận lãi suất. Vậy thoả thuận về lãi suất có thể xảy ra trước, trong hay sau thời điểm giao kết hợp đồng? Hình thức thoả thuận có bắt buộc bằng văn bản hay không? Hơn nữa, trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản lãi suất vào nợ gốc và yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để xác định chính xác khoản tiền vay tại từng thời điểm trong trường hợp này. Khi đó, việc áp dụng lãi suất 20%/năm (theo Điều 468) cho khoản vay vào thời điểm nào mới là phù hợp và số tiền nào được gọi là khoản tiền vay?

Bên cạnh đó, pháp luật dân sự Điều 468 BLDS năm 2015 chỉ quy định lãi suất đối với trường hợp tài sản vay là tiền, mức lãi suất đối với trường hợp tài sản vay là tiền, mức lãi suất không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Điều này cũng như cả 08 điều luật còn lại của chế định hợp đồng vay tài sản không hề nhắc đến hạn mức lãi suất trong trường hợp tài sản vay không phải là tiền. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 463 thì các bên có thể thỏa thuận lãi suất đối với tất cả các loại tài sản vay. Do đó, khi vay vật hoặc tài sản khác không phải là tiền các bên vẫn có quyền thỏa thuận lãi suất. Điều này gây khó khăn trong hợp đồng vay với đối tượng không phải là tiền và có lãi suất cũng như việc xét xử nếu có tranh chấp trong trường hợp này.

Hơn nữa, quy định về lãi suất không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay được quy định tại Điều 476 BLDS không phải là quy định tuyệt đối vì việc ghi thêm cụm từ “trừ trường hợp luật khác có quy định khác”. Theo quy định này, đối với những trường hợp vay nào thì sẽ áp dụng quy định lãi suất tại BLDS năm 2015, trường hợp vay nào thì áp dụng luật khác có liên quan? Luật có liên quan trong lĩnh vực này hiện nay chỉ có Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, trong các Luật này lại có quy định khác so với BLDS năm 2015. Vì vậy, các tổ chức, cá nhân có quan hệ trong hợp đồng vay tài sản và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật khó áp dụng quy định này trên thực tế, khiến cho họ rơi vào thế lúng túng không biết áp dụng quy định của luật nào trong trường hợp đang diễn ra.

Những vấn đề pháp lý mới của luật Dân Sự

Những vấn đề pháp lý mới của luật Dân Sự

Những vấn đề pháp lý mới của luật Dân Sự

I. Chủ thể có quyền thừa kế

Điều 631 BLDS 2005 chỉ ghi nhận quyền thừa kế của cá nhân:

“Điều 631. Quyền thừa kế của cá nhân

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.”

Điều 609 BLDS 2015 đã bổ sung thêm chủ thể “người không phải là cá nhân” có quyền hưởng di sản theo di chúc (thay thế cụm từ “cơ quan, tổ chức” bằng “người không phải là cá nhân”):

“Điều 609. Quyền thừa kế

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.

* Ý nghĩa:

Quy định này đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các quy định khác so với BLDS 2005. Cụ thể, Điều 635 BLDS 2005 ghi nhận cơ quan, tổ chức có thể là người thừa kế theo di chúc và khoản 4 Điều 637 BLDS 2005 cũng ghi nhận nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại của cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc nhưng Điều 631 BLDS 2005 lại không ghi nhận quyền thừa kế của cơ quan, tổ chức dẫn đến chưa có sự thống nhất trong quy định. Khắc phục hạn chế này, Điều 609 BLDS 2015 đã bổ sung quy định về quyền thừa kế của người không phải là cá nhân thống nhất với quy định tại Điều 613 BLDS 2015 về người thừa kế bao gồm: cá nhân và người không phải là cá nhân. Ngoài ra, BLDS 2015 cũng đã thay thế chủ thể “cơ quan, tổ chức” chuyển thành “người không phải là cá nhân” với phạm vi rộng hơn.

II. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

  Điều 637 BLDS 2005 Điều 615 BLDS 2015
Những người thừa kế (khoản 1) “có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.” “có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Người quản lý (khoản 2) “Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.” “Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.

 

Nhìn vào bảng trên sẽ thấy ngay sự chưa thống nhất của BLDS 2005, cùng là thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nhưng đối với những người thừa kế thì việc thực hiện nghĩa vụ được giới hạn trong phạm vi di sản còn đối với người quản lý trong trường hợp di sản chưa chia thì lại thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế mà có không giới hạn.

Đến BLDS 2015, nhận thấy sự bất cập này Điều 615 BLDS 2015 đã giới hạn phạm vi thực hiện nghĩa vụ tài sản của người quản lý di sản đối với di sản chưa chia phải trong phạm vi di sản do người chết để lại, còn đối với những người thừa kế thì giữ nguyên tinh thần của Điều 637 BLDS 2005.

* Ý nghĩa:

– Đảm bảo tính thống nhất, hợp lý trong quy định của điều luật, pháp lý mới của luật Dân Sự.

– Với quy định sửa đổi của BLDS 2015 thì đối với phần nghĩa vụ vượt quá giá trị di sản do người chết để lại thì người quản lý không phải thực hiện phần vượt quá đó. Trên thực tế, điều luật này đã tránh việc lạm quyền của những người thừa kế, lợi dụng việc pháp luật không giới hạn phạm vi thực hiện nghĩa vụ tài sản của người quản lý mà thỏa thuận với nhau đưa ra những yêu cầu bất lợi cho người quản lý di sản.

* Hạn chế:

Tình huống: Ông A có 5 mảnh đất và 5 căn nhà trên đó ở 5 tỉnh khác nhau và mỗi nơi đều có một người quản lý riêng. Tại thời điểm ông A mất có 5 người quản lý di sản do ông A để lại. Nghĩa vụ tài sản ông A để lại là 10 tỷ (căn nhà tỉnh B trị giá 9,5 tỷ). Tại thời điểm di sản chưa được chia, những người thừa kế thỏa thuận người đang quản lý căn nhà ở tỉnh B là bà C thực hiện toàn bộ nghĩa vụ tài sản do ông A để lại, bà C có quyền bán ngôi nhà đó đi để thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, khi bà bán căn nhà chỉ được 9,5 tỷ nghĩa là vẫn còn thiếu 500 triệu đồng. Như vậy, phần vượt quá này ai sẽ là người chịu? Nếu theo quy định của luật thì người quản lý di sản thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản do người chết để lại chứ không phải trong phạm vi di sản do mình quản lý. Như vậy, nếu chiếu theo quy định của luật thì phần vượt quá 500 triệu do bà C bù vào vì bà có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản của ông A để lại lớn hơn 10 tỷ rất nhiều. Như vậy, ta thấy ngay được bất cập, đó là việc bà C chỉ quản lý căn nhà giá trị 9,5 tỷ nhưng phải chịu giá trị nghĩa vụ tài sản do người chết để lại lên tới 10 tỷ vì số tiền đó vẫn nằm trong phạm vi di sản do ông A để lại.

Hiện tại, BLDS cũng chưa quy định về trường hợp có nhiều người quản lý di sản, chưa có những quy định cụ thể khi có nhiều người quản lý thì việc phân chia trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ sẽ như thế nào? Việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi phần di sản mình đang quản lý hay phạm vi di sản do người chết để lại.

Và đối với trường hợp nhiều người quản lý cùng quản lý một khổi tài sản thì khi có thiệt hại hoặc vật đó gây ra thiệt hại thì trách nhiệm được xem xét như thế nào? (liên đới với phần trách nhiệm như nhau hay theo tỉ lệ với mức độ lỗi của mỗi người trong việc gây ra thiệt hại hay ai là người có lỗi phải chịu toàn bộ trách nhiệm?). Từ đó, cũng cần phải xem xét đến trường hợp sau khi hết thời hiệu khởi kiện mà di sản thuộc về những người quản lý thì tỉ lệ sở hữu của họ đối với di sản là ngang nhau hay xem xét đến công sức đóng góp, đầu tư, khai thác làm gia tăng giá trị tài sản mà chia các phần sở hữu khác nhau?

III. Quyền của người quản lý di sản

  Điều 640 BLDS 2005 Điều 618 BLDS 2015
Quyền của người quản lý di sản – Đại diện cho những người thừa kế với bên thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

– Hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.

– Đại diện cho những người thừa kế với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

– Hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

– Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Quyền của người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản – Được tiếp tục sử dụng di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

– Hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.

– Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

– Hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

 

Ngoài hai quyền kế thừa từ BLDS 2005 thì BLDS 2015 cũng bổ sung thêm quyền “được thanh toán chi phí bảo quản di sản” và quyền “được hưởng một khoản thù lao hợp lý” trong trường hợp không thỏa thuận được với những người thừa kế theo Điều 618. Như vậy, đây là căn cứ để người quản lý di sản có thể đòi khoản thù lao cho mình ngay cả trong trường hợp những người thừa kế không đồng ý. Theo đó, nếu các bên không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ xem xét và quyết định đối với từng trường hợp cụ thể.

Ngoài việc trực tiếp quy định quyền được thanh toán chi phí bảo quản di sản cho người quản lý di sản nêu trên, Điều 658 BLDS 2015 còn đưa chi phí bảo quản di sản lên vị trí ưu tiên thứ 3 trong các chi phí được ưu tiên thanh toán (thay vì thứ 9 theo quy định tại khoản 9 Điều 683 BLDS 2005). Việc sửa đổi này xuất phát từ nguyên lý người quản lý di sản là người đã phải bỏ công sức, chi phí để duy trì, bảo quản (nếu di sản có nguy cơ hư hỏng, mất mát thì người quản lý cần phải bỏ ra chi phí cần thiết để bảo quản di sản) hoặc gia tăng giá trị tài sản, bởi vậy họ có quyền yêu cầu người thừa kế phải thanh toán chi phí đó.

=> Quy định đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho người quản lý di sản, đánh giá cao hơn vai trò của người quản lý di sản.

* Ý nghĩa:

– Giúp cho người quản lý yên tâm hơn trong việc quản lý và tạo ra, gia tăng giá trị cho di sản do người chết để lại.

– Đây sẽ là căn cứ để người quản lý; người chiếm giữ, sử dụng, quản lý di sản có quyền yêu cầu người thừa kế thanh toán chi phí và thù lao nếu không thỏa thuận được thì sẽ là căn cứ để họ yêu cầu Tòa án giải quyết.

– Quản lý di sản là công việc cần thiết sau khi mở thừa kế, đặc biệt di sản là tài sản đang cho thuê, tài sản đang đầu tư vào doanh nghiệp hoặc có thể là doanh nghiệp thì vấn đề quản lý những di sản thuộc loại này có ý nghĩa quan trọng, không những bảo quản tốt tình trạng di sản mà còn làm di sản tăng giá trị hoặc phát sinh lợi tức cho những người thừa kế. Quy định bổ sung này đã góp phần bảo đảm được quyền và lợi ích của người quản lý, khắc phục hạn chế của BLDS 2005.

IV. Từ chối nhận di sản

Quy định về nội dung này, BLDS 2015 có 2 điểm mới sau:

Về các chủ thể mà người từ chối nhận di sản phải gửi văn bản từ chối nhận di sản: So với Điều 642 của BLDS 2005 thì Điều 620 BLDS 2015 đã bổ sung thêm nội dung: văn bản từ chối nhận di sản phải được gửi cho cả người quản lý di sản. Điều này nhằm bảo đảm phù hợp với quyền, nghĩa vụ của người quản lý di sản quy định tại Điều 617, 618 BLDS 2015. Ngoài ra, BLDS 2015 không còn quy định người từ chối nhận di sản phải gửi văn bản từ chối đến “cơ quan công chứng hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế” như BLDS 2005.

– Thời hạn từ chối nhận di sản: BLDS 2015 không còn quy định thời hạn từ chối là 06 tháng kể từ ngày mở thừa kế như khoản 3 Điều 642 BLDS 2005 mà quy định “việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản”. Việc sửa đổi, bổ sung này là xuất phát từ thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế. Theo tổng kết của ngành Tòa án thì rất ít trường hợp người nhận di sản thực hiện việc từ chối nhận di sản trong thời hạn 06 tháng. Điều này một phần xuất phát từ văn hóa của người Việt Nam, khi cha mẹ hoặc người thân mới mất, những người thừa kế thường tránh đề cập đến vấn đề phân chia di sản. Do đó, trong không ít trường hợp, sau khi người để lại di sản chết vài năm, việc phân chia di sản mới được đặt ra và tranh chấp về thừa kế đến lúc này mới phát sinh. Nhiều người thuộc diện hưởng thừa kế vì không muốn tham gia vào vụ tranh chấp hoặc vì lý do khác không muốn nhận di sản thừa kế và lúc này họ mới có ý định từ chối nhận di sản. Những người này làm đơn xin Tòa án cho phép họ từ chối nhận di sản, nếu Tòa án chấp nhận thì sẽ vi phạm quy định, nếu Tòa án không cho họ thực hiện quyền này thì quyền của họ đã không được đảm bảo.

Như vậy, rõ ràng quy định cũ về thời hạn 06 tháng của BLDS 2005 đặt ra là không hợp lý, pháp luật đã hạn chế quyền của họ một cách vô lý. Vì việc từ chối nhận di sản là quyền tự định đoạt (Điều 195 BLDS 2005) của cá nhân về tài sản. Người thừa kế vẫn có quyền không nhận di sản cho đến khi di sản được phân chia mà không ai có quyền buộc họ phải nhận, kể cả Tòa án. Bởi vì, khi di sản được chia theo thủ tục thỏa thuận hoặc thủ tục tư pháp thì người thừa kế vẫn có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp có căn cứ để chứng minh việc từ chối nhận di sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người khác. Việc thực hiện quyền năng này ngoài thời hạn 06 tháng hoàn toàn không “gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” căn cứ theo nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu quy định tại Điều 165 BLDS 2005.

Như vậy với quy định tại Điều 642 tạo ra sự không thống nhất trong quy định của BLDS 2005 giữa các Điều 642, 165, 195. Việc áp dụng một cách máy móc Điều 642 chỉ làm phức tạp hóa quan hệ dân sự, gây phiền phức cho người dân, chứ chưa thực sự nhằm ổn định quan hệ xã hội.

* Ý nghĩa:

– Trên tinh thần đó, vấn đề pháp lý mới luật Dân Sự tại khoản 3 Điều 620 BLDS 2015 sửa đổi giúp khắc phục được hạn chế của BLDS 2005 và bảo đảm tốt hơn việc thực hiện quyền hưởng thừa kế của người thừa kế. Đồng thời, tạo điều kiện tối đa hóa quyền của những người thừa kế khác đối với di sản thừa kế trong việc thực hiện các quyền năng của mình đối với di sản thừa kế đó.

– Quy định mới này giúp giảm thiểu tình trạng tài sản “bị treo” gây lãng phí của cải xã hội và có thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba. Vì trên thực tế, người thừa kế nhất quyết từ chối nhận di sản vì thế nên họ không thực hiện nghĩa vụ tài sản tương ứng do người chết để lại, mà theo quy định thì hết 06 tháng nên di sản phải thuộc về họ, không thể đem chia cho người thừa kế khác, vì vậy gây nên tình trạng di sản thì để đó không có người xác lập quyền sở hữu, sử dụng, đồng thời nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng cũng không được thực hiện, ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba là bên có quyền đối với nghĩa vụ tài sản.

V. Thời hiệu thừa kế

Điều 645 BLDS 2005 Điều 623 BLDS 2015
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 10 năm. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản.
Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm.

 

 

BLDS 2015 giữ nguyên tinh thần về thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác và thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản. So với BLDS 2005, BLDS 2015 đã có sự thay đổi về thời hiệu yêu cầu chia di sản từ 10 năm (cả động sản và bất động sản) theo BLDS 2005 thành 30 năm đối với BĐS và 10 năm đối với động sản. Xuất phát từ thực trạng xã hội: Ở nhiều nơi, di sản không được phân chia mà truyền từ đời này sang đời khác. Rất có thể, thế hệ tiếp sau đó khi nhận thức của họ về vấn đề hưởng di sản thừa kế được rõ ràng thì họ sẵn sàng đòi lại. Lúc này, tranh chấp thường phức tạp hơn rất nhiều vì liên quan đến việc xác định di sản, người thừa kế qua các thế hệ… Từ đó cũng có thể dẫn tới thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp về thừa kế đã hết.

Ngoài ra, hậu quả pháp lý đối với di sản hết thời hiệu khởi kiện (giải quyết như thế nào, di sản thừa kế đó thuộc về ai?) BLDS 2005 vẫn còn để ngỏ.

Điều này dẫn đến tình trạng nhiều tài sản hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế bị “treo”, không xác định được chủ sở hữu gây khó khăn khi tham gia giao dịch dân sự và gây lãng phí của cải xã hội. Khắc phục hạn chế này, BLDS 2015 đã quy định hậu quả pháp lý sau khi hết thời hạn 30 năm đối với BĐS, 10 năm đối với động sản mà những người thừa kế không yêu cầu chia di sản thì di sản thừa kế sẽ được xử lý như sau:

– Di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản;

– Nếu không có người thừa kế đang quản lý thì di sản “thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu” theo quy định của BLDS;

– Nếu di sản không có người thừa kế và cũng không có người đang chiếm hữu thì di sản đó thuộc về Nhà nước.

Việc sửa đổi, bổ sung điều này xuất phát từ nguyên lý tránh lãng phí của cải của xã hội và thiết lập sự ổn định, minh bạch cho tình trạng pháp lý của tài sản. Theo đó, khi người thừa kế được hưởng di sản thì đồng nghĩa với việc họ có quyền sở hữu đối với di sản thừa kế đó. Tuy nhiên, nếu trong 30 năm đối với BĐS, 10 năm đối với động sản, những người thừa kế không yêu cầu chia di sản và họ không thực hiện những quyền mà pháp luật trao cho họ thì đồng nghĩa với việc họ không quan tâm đến tài sản của mình và đã để lãng phí của cải của xã hội. Trong trường hợp này, họ sẽ mất đi quyền sở hữu đối với di sản mà đáng lẽ họ được hưởng. Ngoài ra, quy định như vậy nhằm bảo đảm sự ổn định cũng như sự phát triển của xã hội vì nếu không quy định thời hiệu yêu cầu chia di sản thì người đang chiếm hữu di sản không biết lúc nào tài sản bị đem ra chia (có thể là hàng chục năm sau) do đó họ không yên tâm để đầu tư, phát triển, nhằm tận dụng được tối đa giá trị của tài sản đó, mà có thể để di sản trong tình trạng hư hỏng gây lãng phí.

* Ý nghĩa:

Việc BLDS 2005 quy định về thời hiệu nhưng không quy định về hậu quả sau khi hết thời hiệu, di sản sẽ thuộc về ai dẫn đến những bất cập trong thực tiễn, đặt ra vấn đề nhưng giải quyết được triệt để vấn đề. Vì vậy, BLDS 2015 đã bổ sung thêm hậu quả pháp lý mới của luật Dân Sự đối với di sản sau khi hết thời hiệu. Quy định này khiến người quản lý di sản có thể yên tâm trong việc khai thác, gia tăng giá trị di sản vì họ biết mốc thời gian cụ thể khi nào, trường hợp nào tài sản này có thể thuộc sở hữu của mình => đảm bảo quyền lợi cho người quản lý di sản, ghi nhận công sức đóng góp vào di sản của người quản lý di sản.

Việc các nhà làm luật mở rộng khoảng thời gian về thời hiệu là 30 năm đối với bất động sản là để phù hợp, thống nhất với quy định tại Điều 236 BLDS 2015 (về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục và công khai) thì thời hiệu xác lập quyền sở hữu đối với BĐS cũng là 30 năm, động sản là 10 năm.

Ngoài ra, xét trên thực tế có rất nhiều trường hợp người thừa kế đi làm ăn xa nhà, xa quê hương nhiều năm trời đến khi quay về nhận thừa kế của người thân cũng phải hàng bao nhiêu năm, thêm nữa bất động sản là tài sản có giá trị lớn, có ý nghĩa với họ vì vậy, quy định khoảng thời gian 30 năm để yêu cầu phân chia di sản đối với bất động sản là phù hợp với thực tiễn, giúp bảo vệ được tối đa quyền của người thừa kế, giúp họ được nhận lại di sản của những người ruột thịt nhất để tiếp tục giữ gìn và sử dụng.

Kết luận lại, việc sửa đổi này của BLDS 2015 vừa bảo vệ quyền sở hữu của người thừa kế vừa phát huy vai trò của những người không phải là chủ sở hữu trong việc tận dụng, khai thác giá trị di sản. Điểm mới quan trọng nhất trong pháp lý mới của luật Dân Sự quy định trên là ghi nhận vai trò của người thừa kế đang quản lý di sản; việc khai thác, sử dụng di sản của người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định của pháp luật. Quy định này có ý nghĩa và phù hợp từ góc độ pháp lý đến góc độ thực tiễn. Việc họ khai thác, sử dụng, quản lý di sản trong thời gian 30 năm phải được ghi nhận địa vị pháp lý với tư cách là chủ sở hữu tài sản đó.

* Hạn chế:

Chưa có sự thống nhất giữa khoản 1 và khoản 2 Điều 623 BLDS 2015. Trong khi khoản 1 thời hiệu yêu cầu phân chia di sản BĐS là 30 năm, động sản là 10 năm thì khoản 2 lại quy định thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Đặt ra trường hợp, nếu một người con ngoài giá thú sau 20 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, mới yêu cầu Tòa xác nhận quyền thừa kế của mình đối với BĐS của cha đẻ. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng thời hiệu yêu cầu phân chia di sản thừa kế vẫn còn nhưng thời hiệu để yêu cầu xác nhận quyền thừa kế thì đã hết. Vì không thể xác nhận quyền thừa kế nên người con đó cũng không thể yêu cầu chia thừa kế. Vậy nên việc đặt ra thời hiệu yêu cầu phân chia di sản dài hơn trong trường hợp này cũng không có ý nghĩa gì đối với họ. Đối với những đối tượng này nếu trong 10 năm họ không thực hiện quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình thì họ sẽ mất luôn quyền yêu cầu phân chia di sản dù thời hiệu vẫn còn đối với BĐS.

VI. Người làm chứng cho việc lập di chúc

Điều 632 BLDS 2015 giữ nguyên tinh thần của Điều 654 BLDS 2005 về những người không được làm chứng cho việc lập di chúc. Tuy nhiên, để phù hợp với Điều 23 BLDS 2015, Điều 632 BLDS 2015 đã bổ sung thêm người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cũng không được làm chứng cho việc lập di chúc. Cụ thể, những người không được làm chứng cho việc lập di chúc theo BLDS 2015 gồm:

– Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;

– Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

– Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Vì những người có khó khăn về nhận thức, làm chủ hành vi thì không thể nhận thức đầy đủ hành vi và hậu quả pháp lý về hành vi của mình và của người khác, cho nên không thể là người làm chứng trong việc lập di chúc.

* Ý nghĩa:

Thống nhất với các quy định khác và liệt kê đầy đủ hơn những đối tượng không thể làm chứng, hạn chế tranh chấp trên thực tế và nhằm bảo đảm được tốt hơn quyền lợi của những người có liên quan.

VII. Di chúc chung của vợ chồng

So với BLDS 2005, BLDS 2015 đã bỏ các quy định về: di chúc chung của vợ chồng; sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng; hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng đã được quy định trong BLDS 2005.

– Điều 668 BLDS 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Với quy định này, quyền và lợi ích của người thừa kế khác ngoài vợ hoặc chồng của người chết và những người có liên quan đến di sản thừa kế có thể bị ảnh hưởng. Đặt ra trường hợp, người còn lại có thể sống lâu hơn những người thừa kế khác hoặc thậm chí vượt qua các khoảng thời hiệu mà Nhà nước cho phép các chủ thể trong quan hệ thừa kế khởi kiện bảo đảm quyền và lợi ích của mình đối với di sản thừa kế. Trong cả khoảng thời gian đó, di sản được quản lý bởi người vợ hoặc chồng còn sống có thể bị/được khai thác, sử dụng để hưởng những lợi ích nhất định từ khối di sản đó (cố tình sử dụng hết vì mục đích cá nhân, đến thời điểm phân chia di sản thì không còn di sản). Tất cả những điều này ít nhiều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của (những) người thừa kế trong di chúc. Như vậy, rõ ràng tính hiệu quả và phù hợp trong việc khai thác, sử dụng di sản của người thừa kế sẽ không triệt để.

– Mục đích lớn nhất khi quy định về di chúc chung của vợ chồng là bảo đảm di sản thừa kế luôn có sự thống nhất ý chí của vợ chồng khi định đoạt khối tài sản thuộc sở hữu chung. Tuy nhiên, khi pháp luật ghi nhận “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”, điều này có nghĩa là trong trường hợp vợ, chồng cùng có nguyện vọng chuyển tài sản của mình cho người thừa kế thì họ hoàn toàn có quyền lập di chúc riêng của mình để cùng định đoạt điều đó. Rõ ràng việc này vẫn đạt được mong muốn của người để lại di sản.

Trên thực tế, việc thực thi quy định về di chúc chung của vợ chồng gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của những người thừa kế và có thể “làm chậm” thời điểm mở thừa kế, thời điểm phân chia di sản không đúng với nguyên lý về thừa kế. BLDS 2015 có sửa đổi theo hướng không quy định di chúc chung của vợ chồng, nhưng cũng không cấm vợ chồng hay một nhóm cá nhân có di chúc chung. Như vậy, trường hợp, vợ chồng cùng lập di chúc chung thì áp dụng nguyên tắc chung về di chúc để xác định hiệu lực của di chúc. Theo đó, di chúc chung của vợ chồng vẫn được công nhận nếu đảm bảo các điều kiện di chúc hợp pháp và điều kiện về hình thức của di chúc được quy định tại BLDS. Về thời điểm có hiệu lực của di chúc, trường hợp một bên vợ hoặc chồng lập di chúc chung chết trước thì phần di chúc của người đó có hiệu lực từ thời điểm người đó chết – thời điểm mở thừa kế.

* Ý nghĩa:

Quy định về di chúc chung của vợ chồng không được ghi nhận tại BLDS 2015 là một điểm mới mang tính đột phá. Một mặt, khắc phục được những bất cập của BLDS 2005, mặt khác đơn giản hóa quá trình lập di chúc của người để lại di sản, phân chia và hưởng di sản thừa kế của người thừa kế và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

VIII. Di chúc bị thất lạc, hư hại

Điều 666 BLDS 2005 mới chỉ quy định hướng giải quyết đối với hai trường hợp:

– Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu di chúc bị thất lạc hoặc hư hải đến nỗi không thể hiện được chính xác ý nguyện của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng chia thừa kế theo pháp luật.

– Di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.

Mà chưa đề cập đến trường hợp di sản thừa kế đã được chia nhưng sau đó tìm thấy di chúc thì giải quyết thế nào?

Đến BLDS 2015, ngoài hai trường hợp giống như trên, kế thừa từ BLDS 2005 thì Điều 642 BLDS 2015 còn bổ sung thêm pháp lý mới của luật Dân Sự quy định tại khoản 3 về việc giải quyết di sản đã chia sau đó mới tìm thấy di chúc cụ thể như sau: “trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu”. Những người thừa kế đã nhận di sản thì phải hoàn trả lại phần di sản mà người thừa kế theo di chúc được hưởng.

* Ý nghĩa:

Khi BLDS 2005 có hiệu lực thi hành, nhiều trường hợp xảy ra trên thực tế đó là tại thời điểm người để lại di sản chết không tìm thấy di chúc vì nhiều lý do (có trường hợp có người cố ý giấu bản di chúc đi) nên đã chia di sản theo pháp luật. Tuy nhiên, sau đó có thể vài tháng, vài năm (vẫn đang trong thời hiệu yêu cầu chia thừa kế) bản di chúc được tìm thấy hoặc phát hiện ra, sau đó đã xảy ra tranh chấp giữa những người thừa kế: người thì không công nhận bản di chúc đó vì thực tế đã chia di sản theo pháp luật xong xuôi rồi nên bản di chúc đó không còn giá trị, ngoài ra cũng có người nghi ngờ tính chính xác của bản di chúc đó (nghi có thể đó là giả mạo vì sau bao nhiêu năm mới tìm thấy), cũng có người thừa kế yêu cầu phải phân chia theo bản di chúc đó vì bản di chúc đó không thuộc trường hợp di chúc không hợp pháp hay di chúc không có hiệu lực, vì thế vẫn phải tôn trọng ý chí của người để lại di sản mà chia di sản theo di chúc. Từ tranh chấp này, những người thừa kế đã nộp đơn đến Tòa yêu cầu giải quyết. Tuy nhiên, các Tòa cũng lúng túng trong việc áp dụng vì không có điều luật điều chỉnh trường hợp này, hoặc cũng có Tòa từ chối thụ lý vụ án này vì lý do luật chưa quy định đối với trường hợp này dẫn đến việc mâu thuẫn vẫn cứ phát sinh và tranh chấp cứ kéo dài không được giải quyết làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội.

BLDS 2015 với quy định mới này ra đời như tháo gỡ được vướng mắc cho việc áp dụng pháp luật, giảm thiểu được mâu thuẫn và giúp việc giải quyết các tranh chấp được dễ dàng và rõ ràng hơn.

IX. Giải thích nội dung di chúc

Điều 673 BLDS 2005 quy định trường hợp di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và những người thừa kế không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật.

Điều 648 BLDS 2015 đã sửa đổi quy định trên của BLDS 2005 theo hướng: trường hợp những người thừa kế không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc sửa đổi này xuất phát từ nguyên tắc ý chí của người để lại di sản luôn được tôn trọng, không thể vì lý do không giải thích được di chúc mà phủ nhận ý chí của họ, coi như không có di chúc và chia theo pháp luật.

Tuy nhiên, trên thực tế giải quyết thì cách hiểu, quan điểm của Tòa án chưa chắc đã thực sự đúng với ý chí của của người để lại di sản. Việc hiểu và giải thích nội dung của di chúc còn tùy thuộc vào quan điểm, những đánh giá, nhận định cá nhân của từng Thẩm phán giải quyết.

* Ý nghĩa:

Đây là điểm mới rất có ý nghĩa trên thực tế. Phần lớn các tranh chấp về thừa kế xảy ra là do những người thừa kế không thống nhất được cách hiểu chung đối với di chúc, mỗi người có một quan điểm, cách hiểu khác nhau dẫn đến mâu thuẫn, xung đột. Khi đó, nếu áp dụng theo quy định BLDS 2005 thì coi như không có di chúc và chia thừa kế theo pháp luật. Như vậy, ý chí của người lập di chúc đã không được tôn trọng và tuân theo. Chưa kể đến đối với (những) người thừa kế hàng thứ nhất vì muốn loại những người thừa kế khác (người thừa kế mà họ sẽ không được hưởng thừa kế nếu chia theo pháp luật) mà cố ý tạo ra sự mâu thuẫn, áp dụng điều này để việc phân chia di sản không tuân theo di chúc nữa. Hoặc trường hợp những người thừa kế mà phần hưởng thừa kế của họ ít hơn những người còn lại thì họ cũng sẽ lợi dụng điều này để được chia đều theo pháp luật.

X. Hạn chế phân chia di sản

Điều 686 BLDS 2005 quy định trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong thời hạn không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế; nếu hết thời hạn do Tòa án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Tòa án cho chia di sản thừa kế.

Giữ nguyên tinh thần của Điều 686 BLDS 2005 nhưng với tư tưởng nhân đạo, bảo vệ bên còn sống vẫn đang gặp khó khăn, Điều 661 BLDS 2015 đã bổ sung: “hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm”.

Ngoài ra, Điều 686 cũng không còn quy định việc “bên còn sống kết hôn” là căn cứ để những người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án cho chia di sản thừa kế nữa. Như vậy, với quy định mới của BLDS 2015 thì dù bên vợ hoặc chồng còn sống đã kết hôn nhưng vẫn gặp khó khăn thì họ vẫn có thể yêu cầu hoặc tiếp tục thực hiện yêu cầu chưa chia di sản và việc bên còn sống kết hôn không phải là căn cứ để để chấm dứt yêu cầu này và phát sinh quyền yêu cầu chia di sản của những người thừa kế.

* Ý nghĩa:

Điểm mới này có ý nghĩa rất lớn trên thực tế. Mục đích, ý nghĩa của quy định này một phần là hướng đến việc giúp đỡ vợ hoặc chồng của người để lại di sản gặp khó khăn. Quy định mới của BLDS 2015 đã tối đa hóa được mục đích nhân đạo này và chỉ xem xét, căn cứ vào bên vợ hoặc chồng của người để lại di sản còn khó khăn hay không vì cốt lõi là giúp họ ổn định cuộc sống bình thường, chứ không xem xét đến tình trạng hôn nhân của họ (vì dù kết hôn bên còn sống vẫn có thể gặp khó khăn).

Bổ sung quy định về việc gia hạn cũng vậy, cũng để bảo đảm tối đa quyền lợi của bên vợ hoặc chồng còn sống, nhất là khi họ gặp khó khăn sau cái chết của người vợ hoặc chồng.

Điểm mới của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015

Đổi tên trong giấy khai sinh

Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 số 92/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2016, bao gồm các quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân giải quyết các vụ việc dân sự và nhiều điểm mới cập nhật, thay thế cho Bộ luật Tố tụng Dân sự số 24/2004/QH11, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Dân sự số 65/2011/QH12 năm 2011. Một trong những điểm mới quan trọng có thể kể đến việc sửa đổi, bổ sung quy định về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.

Có thể đánh giá rằng chứng minh và chứng cứ là một trong các chế định quan trọng nhất của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Trước khi Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 có hiệu lực, chế định này đã cho thấy những bất cập cần thiết phải sửa đổi, như quy định nghĩa vụ giao nộp chứng cứ của đương sự, chứng cứ đương sự giao nộp đến đâu tòa án xét xử đến đấy.

Quy định như vậy chưa thực sự phù hợp với tình hình của nước ta khi mà nhận thức pháp luật của người dân của nước ta còn thấp; bên cạnh đó, có những trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được tài liệu chứng cứ được cơ quan, tổ chức khác lưu giữ; hoặc có những trường hợp thẩm phán không có căn cứ pháp luật để thực hiện thủ tục thu thập tài liệu chứng cứ… Do vậy, việc BLTTDS 2015 có những sửa đổi bổ sung căn bản về chế định này là rất cần thiết.

I. ĐIỂM MỚI CỦA BLTTDS NĂM 2015 VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1. Về nghĩa vụ chứng minh

BLTTDS 2015 kế thừa quy định của BLTTDS 2004 về nghĩa vụ chứng minh: nghĩa vụ chứng minh thuộc về người yêu cầu. Nhưng xem xét rằng có những người yếu thế không thể chứng minh được yêu cầu của mình. Cho nên, BLTTDS 2015 quy định một số trường hợp nhất định thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người bị yêu cầu, cụ thể:

  • Nguyên đơn khởi kiện trong trường hợp bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng, mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại.
  • Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án. Đặc biệt đối với trường hợp người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động.

2. Về nguồn chứng cứ xác định chứng cứ: 

Điều 94 BLTTDS 2015 trong đó bổ sung thêm các nguồn chứng cứ sau: dữ liệu điện tử; văn bản ghi nhận sự kiện pháp lý do người có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực. Theo đó, Điều 95 BLTTDS 2015 quy định cách xác định các chứng cứ này như sau:

  • Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
  • Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
  • Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.

3. Về giao nộp chứng cứ

Điều 96 BLTTDS 2015 quy định đương sự có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án, việc giao nộp chứng cứ phải được lập biên bản. BLTTDS 2015 quy định chặt chẽ hơn về thời hạn giao nộp chứng cứ: không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử.

Khác với quy định của BLTTDS 2004 rằng chứng cứ đương sự cung cấp đến đâu, thẩm phán giải quyết đến đấy. Điều 96 BLTTDS 2015 quy định thẩm phán có trách nhiệm xem xét, nếu thấy tài liệu chứng cứ mà đương sự giao nộp chưa đủ thì thẩm phán phải có trách nhiệm yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ. Và nhằm đảm bảo các chứng cứ được công khai để thực hiện việc tranh tụng, thì đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ cho các đương sự khác.

4. Về thu thập chứng cứ

Khác với BLTTDS 2004 chưa quy định rõ cơ quan, tổ chức, cá nhân thu thập tài liệu chứng cứ bằng các biện pháp nào, Điều 97 BLTTDS 2015 quy định cụ thể các biện pháp thu thập chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tố chức và các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án. BLTTDS 2015 cũng quy định rất cụ thể, trường hợp nào lấy lời khai, trường hợp nào đối chất … ví dụ thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai khi nào đương sự đã trình bày mà có điểm chưa rõ. Quy định nghĩa vụ của thẩm phán trong 3 ngày làm việc kể từ khi thu thập tài liệu, chứng cứ, phải thông báo về tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự.

5. Về đánh giá chứng cứ

So với BLTTDS 2004, Điều 108 BLTTDS 2015 thay từ “Khẳng định giá trị pháp lý của chứng cứ” bằng từ “Khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ”. Như vậy BLTTDS 2015 tiếp tục khẳng định Tòa án là chủ thể có nghĩa vụ đánh giá chứng cứ, nhưng quy định rõ ràng hơn.

Ngoài ra, về chứng cứ và chứng minh BLTTDS 2015 còn sửa đổi, bổ sung nhiều quy định khác như: trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc thực hiện những biện pháp thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm việc thu thập chứng cứ được nhanh chóng, thuận lợi hơn, khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn; sửa đổi, bổ sung quy định về trưng cầu giám định, định giá tài sản, thẩm định giá tài sản để phù hợp với Luật giám định tư pháp, Luật giá đồng thời khắc phục khó khăn, vướng mắc hiện hành về thẩm định giá, định giá tài sản.

II. Thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật các quy định về chứng cứ, chứng minh

Bên cạnh các kết quả đã đạt được của các quy định về chứng minh trong BLTTDS 2015 thì vẫn còn có những hạn chế cần khắc phục và một số kiến nghị hoàn thiện như sau:

1. Thiếu cơ chế bảo đảm thi hành cho một số quy định pháp luật 

Đối với quy định tại khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015 về nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ giữa các đương sự, BLTTDS 2015 không quy định về thời hạn các đương sự có nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau và không quy định hậu quả pháp lý khi các bên đương sự không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao. Do vậy, thực tế hiện nay ở tại các Tòa án cho thấy, do không có quy định về hậu quả pháp lý nên gần như các đương sự không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau.

Do đó, kiến nghị khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015 nên bổ sung theo hướng: “Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải thực hiện ngay việc sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.”

II. Cần bổ sung quy định đối với trường hợp cản trở người làm chứng, đe dọa người làm chứng

Khoản 7 Điều 78 BLTTDS 2015 quy định người làm chứng có nghĩa vụ: “Bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do khai báo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác.”. Tuy nhiên, trên thực tế có những chủ thể dùng lợi ích về vật chất để “mua chuộc” người làm chứng, hoặc ép buộc, đe dọa người làm chứng để người làm chứng đưa ra những lời khai sai sự thật. Những chủ thể này cũng cần phải chịu trách nhiệm thích đáng.

Tham khảo khoản 4 Điều 276 Luật Tố tụng dân sự nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có quy định: “Bất kỳ ai sử dụng bạo lực, đe dọa, hối lộ hoặc bất kỳ cách nào khác gây cản trở nhân chứng đưa ra lời khai hoặc xúi giục người khác đưa ra lời khai sai sẽ bị xử lý hình sự”. Quy định trên đây của Luật Tố tụng dân sự Trung Hoa có thể giúp làm giảm bớt những hành vi có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến thủ tục thu thập chứng cứ. Vì thế, kiến nghị BLTTDS 2015 cũng nên đưa trường hợp này vào pháp luật hiện hành, để tránh những trường hợp mà đương sự bị chịu áp lực quá lớn dẫn đến sự không tự nguyện khi tham gia lấy lời khai, hoặc tham gia nhưng khai báo thiếu trung thực.

III. Pháp luật tố tụng hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc trả lại chứng cứ (là các giấy tờ bản chính) cho đương sự sau khi xét xử và bản án đã có hiệu lực thi hành

Trên thực tế có nhiều trường hợp đương sự không kịp chuẩn bị bản sao y chứng thực tài liệu nên đã nộp bản gốc cho Tòa án như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận kết hôn,… Sau đó, đương sự có yêu cầu Toà án trả lại tài liệu bản gốc, tuy nhiên nhiều trường hợp trên thực tế Toà án không trả lại giấy tờ đó cho đương sự với lý do “để lưu hồ sơ”. Tham khảo khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên Bang Nga“Sau khi bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, thư chứng được trả lại theo yêu cầu của người xuất trình. Trong trường hợp này, bản sau có xác nhận của Toà án được lưu lại cùng với hồ sơ vụ án.”. Như vậy, pháp luật Nga đã quy định một cách rõ ràng, cụ thể về nghĩa vụ trả lại tài liệu, hồ sơ là bản gốc khi có yêu cầu của đương sự. Quy định như vậy còn giúp giảm tải chi phí của xã hội liên quan đến thủ tục công chứng, chứng thực tài liệu.

Do đó, kiến nghị BLTTDS 2015 cũng nên đưa ra quy định cụ thể về việc Toà án có nghĩa vụ hay không có nghĩa vụ trả lại hồ sơ, tài liệu là bản gốc trong trường hợp đương sự có yêu cầu. Và quy định rõ ràng trường hợp nào thì đương sự được trả lại theo yêu cầu của mình.

IV. Nhiều quy định chưa có văn bản hướng dẫn, giải thích cụ thể dẫn đến việc áp dụng chưa thống nhất, khó đảm bảo tính khách quan trong chứng minh

1. Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 92 BLTTDS 2015

Điểm a khoản 1 Điều 92 BLTTDS 2015 quy định “Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận” thì không phải chứng minh. Như vậy xác định “mọi người” ở đây là những ai? Nếu theo nghĩa thông thường mọi người là tất cả con người thì bằng thủ tục nào để có thể khẳng định tình tiết, sự kiện đó được biết bởi tất cả con người. Rõ ràng, thủ tục này là gần như không thể thực hiện được bởi khoảng cách về địa lý, về ngôn ngữ là khó có thể vượt qua.  Như vậy, việc thừa nhận những tình tiết, sự kiện mang tính đương nhiên, chân lý đôi khi phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí chủ quan của Thẩm phán, và có thể dẫn đến sự không thống nhất trong việc áp dụng của các Tòa án khác nhau.

Do đó, kiến nghị BLTTDS 2015 nên bổ sung hướng dẫn chi tiết cách xác định“những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận”  và các tiêu chí cụ thể đề Tòa án có thể xem xét thừa nhận.

2. Quy định tại Khoản 2 Điều 97 BLTTDS 2015

Khoản 2 Điều 97 BLTTDS 2015 bổ sung thêm biện pháp thu thập chứng cứ là xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú nhưng lại không quy định rõ biện pháp này Tòa án tiến hành khi có yêu cầu của đương sự hay Tòa án được tự thực hiện khi xét thấy cần thiết cũng như trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp này. Trên thực tế, việc xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự ở nơi cư trú có liên quan nhiều tới hoạt động quản lý của Cơ quan Công an ở địa phương. Do vậy, biện pháp này cần có sự phối hợp của Cơ quan Công an hoặc Tổ trưởng dân phố, xã, phường.

Từ những lý do trên, cần phải quy định cụ thể về trách nhiệm của chiến sỹ Công an, Cơ quan Công an khi không hỗ trợ Tòa án trong việc xác minh. Bên cạnh đó, BLTTDS 2015 cũng cần có hướng dẫn cụ thể biện pháp thu thập chứng cứ “xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú” rằng Tòa án tiến hành khi có yêu cầu của đương sự hay Tòa án được tự thực hiện khi xét thấy cần thiết và hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện để các Tòa án thống nhất trong việc thực hiện biện pháp thu thập chứng cứ này.

3. Quy định tại khoản 1 Điều 96 BLTTDS 2015 và khoản 3 Điều 106 BLTTDS 2015

Khoản 1 Điều 96 BLTTDS 2015 và khoản 3 Điều 106 BLTTDS 2015 quy định khi đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu và khi Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ của Tòa án thì cần phải có “lý do chính đáng”. Tuy nhiên, BLTTDS 2015 lại chưa giải thích rõ trường hợp nào được coi là “lý do chính đáng”, dẫn đến việc xem xét lý do có chính đáng hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của thẩm phán hoặc các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang giữ tài liệu, chứng cứ. Điều này không chỉ dẫn đến sự thiếu đồng bộ, mà còn có thể làm phát sinh sự thiếu minh bạch, công bằng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Như vậy, kiến nghị BLTTDS 2015 cần có hướng dẫn giải thích rõ những lý do nào được xem là “lý do chính đáng” hoặc đưa ra những tiêu chí cụ thể, rõ ràng để một lý do được xem là “lý do chính đáng” cho các trường hợp tại khoản 1 Điều 96 BLTTDS 2015 và khoản 3 Điều 106 BLTTDS 2015.

III. KẾT LUẬN

Chứng minh là hoạt động tố tụng cơ bản trong tố tụng dân sự, làm cơ sở cho Tòa án giải quyết vụ việc dân sự được chính xác và đúng pháp luật. Chính vì vậy, chứng minh trong tố tụng dân sự mang tính chất quyết định đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Về mặt xã hội, chứng minh không chỉ có ý nghĩa đối với các đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn có ý nghĩa đối với Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Để đảm bảo các quy định về chứng minh trong tố tụng dân sự, công tác hoàn thiện pháp luật đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, cũng cần nâng cao năng lực của cơ quan tiến hành tố tụng, nâng cao hiểu biết pháp luật của người tham gia tố tụng.

Hành vi liên tục tra tấn bé gái 3 tuổi của gã nhân tình

Hành vi liên tục tra tấn bé gái 3 tuổi của gã nhân tình

Hành vi liên tục tra tấn bé 3 tuổi của gã nhân tình: Phần con hoang dã lớn hơn phần người

Công an TP. Hà Nội đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tạm giam 4 tháng Nguyễn Trung Huyên (SN 1992, là thợ mộc, trú tại xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, Hà Nội), nghi phạm chính trong vụ án bé Đ.N.A – tra tấn bé gái 3 tuổi bị bạo hành dẫn đến nguy kịch.

Điều khiến dư luận bàng hoàng bởi từ lời khai của đối tượng, hắn nhiều lần tra tấn bé gái 3 tuổi, đã có ý định sát hại cháu bé, khiến cháu phải 4 lần nhập viện do ngộ độc thuốc diệt cỏ, gãy tay, nuốt dị vật là đinh và đỉnh điểm bị găm 9 chiếc đinh vào đầu. Nhiều lần Huyên tra tấn bé gái 3 tuổi nhưng cháu qua khỏi là do được cấp cứu kịp thời.

Lý giải về việc đối tượng “hết lần này đến lần khác” ra tay với cháu bé, chuyên viên nghiên cứu tâm lý tội phạm từ Công ty luật Multi Law – Lê Bảo Ngọc cho biết, nhiều nghiên cứu và thực tiễn đã phát hiện ra rằng, sau khi các cặp vợ chồng ly hôn và sống với người mới, những đứa con riêng dễ trở thành nạn nhân của bạo hành.

Tâm lý học tiến hóa giải thích hiện tượng này do “lý thuyết đầu tư của cha mẹ”. Trong tự nhiên, việc cha mẹ kế ngược đãi con riêng thực sự là một hiện tượng khá phổ biến.

Ví dụ, khi một con sư tử đực đầu đàn bị đánh bại và thay thế, con đực đầu đàn mới sẽ giết hết bầy sư tử con để cùng các sư tử cái sinh ra những con non khác mang nguồn gene của nó.

Các nhóm linh trưởng như đười ươi, khỉ voọc đực cũng làm điều tương tự. Với loài chim jaçanas, con trống sẽ xây tổ để con mái đẻ trứng ở đó. Khi một con chim mái khác đến để cặp với chim trống, nó sẽ đập vỡ bất kỳ quả trứng nào mà con mái trước đó đã đẻ…

Do việc nuôi dạy con cái tốn nhiều thời gian và công sức nên bản năng chọn lọc tự nhiên thúc đẩy các sinh vật đầu tư vào những đứa trẻ có cùng huyết thống.

Những con non không mang nguồn gene của mình là gánh nặng và sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh nguồn thức ăn với con của chúng. Do vậy, nhiều loài sinh vật có xu hướng tấn công nhằm loại bỏ những con non khác cùng đàn để tập trung đầu tư tất cả nguồn lực cho sự phát triển của con ruột chúng.

Bản năng đáng sợ này không chỉ xảy ra ở các loài động vật, mà xã hội loài người cũng vẫn còn, chỉ là cách tiếp cận của con người ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn.

Vợ ở nhà nội trợ thì khi ly hôn có được chia tài sản không?

Những vấn đề pháp lý mới của luật Dân Sự

Vợ ở nhà nội trợ thì khi ly hôn có được chia tài sản không?

I. Xác định tài sản của vợ chồng để phân chia khi ly hôn

Theo quy định tại Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Tài sản chung của vợ và chồng được xác lập theo thỏa luận tức là dựa trên ý chí tự nguyện, mong muốn đóng góp tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản khác nhưng được vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung của vợ chồng.

Tài sản chung của vợ chồng dựa trên thỏa thuận có thể là:

  • Là tài sản chung của vợ và tài sản chung của chồng trước hôn nhân và được vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
  • Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân và được vợ chồng thỏa thuận là thuộc tài sản chung của vợ chồng;
  • Tài sản của vợ hoặc chồng được tặng, cho… trong thời kỳ hôn nhân nhưng được vợ và chồng thỏa thuận là tài sản chung của vợ chồng;
  • Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng nhưng được vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung….
  • Các loại tài sản khác.

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Như vậy, tài sản chung cơ bản nhất của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân là tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, sản xuất, kinh doanh… nhằm đóng góp vào khối tài sản chung của vợ chồng, được cả hai thỏa thuận, đồng ý là tài sản chung của vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng còn là tài sản mà vợ chồng được tặng cho, thừa kế chung từ ông bà, cha mẹ, bạn bè… mà cả vợ chồng là những chủ thể đứng tên trong bản di chúc. Và những tài sản khác được xác định là tài sản chung của vợ chồng.

Đối với tài sản là quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn, tạo lập và hình thành trong thời kỳ hôn nhân được pháp luật quy định là tài sản chung của vợ chồng; trừ trường hợp vợ chồng thừa kế riêng, được tặng cho riêng hay bằng tài sản của người đó xác lập, giao dịch mua bán mà có được.

Ngoài ra tại Điều 9 và Điều 10 Nghị định 126/2014/NĐ-CP thì tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tài sản như:

Điều 9. Thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân

1. Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 11 của Nghị định này.

2. Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước.

3. Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

Điều 10. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng

1. Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ, chồng có được từ tài sản riêng của mình.

2. Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của mình.

Pháp luật đã quy định rất chi tiết và cụ thể các trường hợp tài sản sẽ là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Ngoài các liệt kê như trên thì tài sản chung của vợ chồng còn là các khoản thu nhập khác phù hợp theo quy định của pháp luật.

Như vậy: Căn cứ quy định được trích dẫn trên đây thì thu nhập của vợ, chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân về nguyên tắc sẽ được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hợp pháp hoặc vợ, chồng có căn cứ để chứng minh đó là tài sản riêng. Vậy trường hợp của bạn có tài sản là ngôi nhà và xe ô tô, tài sản này phát sinh trong quá trình hôn nhân nên sẽ được xem là tài sản chung của cả vợ chồng bạn.

II. Phân chia tài sản ly hôn khi người vợ chỉ ở nhà làm nội trợ

1. Nguyên tắc ưu tiên sự thỏa thuận của các bên khi phân chia tài sản

Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình quy định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như sau:

“1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật này.”

Căn cứ theo Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, trong thời kỳ hôn nhân (được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân), hai vợ chồng có quyền thỏa thuận phân chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung. Tòa án sẽ tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng trước, nếu hai vợ chồng không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó (Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Vợ chồng tự thỏa thuận được về phân chia tài sản và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án sẽ để vợ chồng tự thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng và không can thiệp vào việc chia tài sản.

Do vậy, hai vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau về việc phân chia tài sản chung trước, nếu không thỏa thuận được thì có văn bản đề nghị Tòa án giải quyết.

2. Tòa án chia tài sản như thế nào?

Điều 59 Luật hôn nhan và gia đình 2014 quy định về  nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:

“2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.”

Như vậy, căn cứ vào quy định trên thì việc vợ chỉ ở nhà nội trợ thì xác định công sức đóng góp của vợ như thế nào để phân chia tài sản chung.

Theo hướng dẫn tại Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP​ thì “công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” theo Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

Như vậy, với trường hợp ly hôn vợ chia tài sản, vợ ở nhà nội trợ, người vợ thực hiện công việc nội trợ, trông nom con cái, chăm sóc gia đình, lo công việc nội trợ. Người vợ không đi làm và không có thu nhập hàng tháng thì vẫn được tính là có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng mình và vẫn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Không phải là không đi làm, không trực tiếp tạo lập tài sản trong gia đình thì sẽ không được phân chia tài sản.

Những điểm mới của pháp luật tố tụng dân sự

Những điểm mới của pháp luật tố tụng dân sự

Đánh giá điểm mới luật tố tụng dân sự, thực tiễn, kiến nghị hoàn thiện pháp luật các quy định về chứng cứ, chứng minh.

Khi giải quyết một vụ án hoặc một việc dân sự điều quan trọng nhất để chứng minh sự thật khách quan của vụ án là chứng cứ, chứng minh. Đương sự luôn là chủ thể phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp. Nên có thể nói rằng, Chứng minh và chứng cứ là một trong các chế định quan trọng nhất của BLTTDS. Phân tích, đánh giá những điểm mới luật tố tụng dân sự và đưa ra kiến nghị hoàn thiện hơn các quy định của về chứng cứ, chứng minh trong TTDS.

I. Nội dung

1. Những điểm mới luật tố tụng dân sự về chứng cứ, chứng minh

Về nghĩa vụ chứng minh.

Trước đây BLTTDS 2004 quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về người yêu cầu. Điều 91 BLTTDS 2015 kế thừa quy định trên, nghĩa là nghĩa vụ chứng minh thuộc về người yêu cầu. Nguyên đơn khởi kiện thì phải chứng minh yêu cầu đó có căn cứ và hợp pháp; bị đơn phản đối yêu cầu thì phải chứng minh phản đối của mình có căn cứ; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì phải chứng minh yêu cầu của mình. Nếu không chứng minh được thì họ phải chịu trách nhiệm.

Nhưng trên thực tế có những người yếu thế, họ không thể chứng minh được yêu cầu của mình. Cho nên, để bảo vệ người yếu thế, BLTTDS 2015 quy định một số trường hợp đặc thù thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người bị yêu cầu, cụ thể:

Nguyên đơn khởi kiện trong trường hợp bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng, thì nguyên đơn không phải chứng minh phần lỗi đối với người tiêu dùng mà trường hợp này được quy định ở Điều 42 Luật bảo vệ người tiêu dùng, Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại. Trên thực tế, người tiêu dùng chỉ biết trả lợi ích vật chất để sử dụng sản phẩm, dịch vụ nhưng tình trạng sản phẩm dịch vụ không như chào hàng hoặc khác so với quảng cáo, chất lượng sản phẩm không phù hợp. Trong trường hợp này lỗi để sản phẩm, dịch vụ không phù hợp ảnh hưởng đến người tiêu dùng thì họ có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp nhưng yếu tố lỗi xuất phát từ Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hay từ bên thứ ba hoặc trở ngại khách quan thì người tiêu dùng không có nghĩa vụ phải chứng minh.

Đối với người lao động khi tranh chấp những vụ án lao động, mà những tài liệu để giải quyết tranh chấp lao động lại nằm ở tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, không phải do người lao động nắm giữ. Trường hợp này người lao động có quyền yêu cầu tòa án, yêu cầu người sử dụng lao động phải chứng minh việc đó. Đặc biệt đối với trường hợp mà việc sa thải, đơn phương đình chỉ hợp đồng thì BLTTDS 2015 quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về trách nhiệm của người sử dụng lao động, không phải trách nhiệm của người lao động. Đây có thể là một điểm mới luật tố tụng dân sự không những phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động mà còn phù hợp với thực tế khách quan. Chúng ta biết rằng, người lao động luôn là bên yếu thế trong quan hệ lao động so với người sử dụng lao động. Khi tranh chấp trong quan hệ lao động phát sinh, được giải quyết bởi thủ tục TTDS, người sử dụng lao động có nghĩa vụ chứng minh hành vi của họ đã tác động tiêu cực đến người lao động là hợp pháp. Đặc thù ở Việt Nam số lượng người lao động tham gia vào thị trường lao động cao nhưng chất lượng lao động, trình độ dân trí của người lao động còn hạn chế thì điểm mới luật tố tụng dân sự này của BLTTDS hiện hành là phù hợp.

Điều 91 BLTTDS cũng quy định trong trường hợp để đảm bảo cho việc tố tụng là tranh tụng thì trách nhiệm chứng minh là của đương sự, nếu đương sự không chứng minh được, không cung cấp đủ tài liệu chứng cứ chứng minh, thì Tòa án thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh đến đâu, sẽ giải quyết đến đó. Nếu đương sự không chứng minh được sẽ không bảo vệ được quyền của mình. Trên thực tế thấy rằng, Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử tuy nhiên như đã phân tích ở trên, đương sự khi tham gia vào quan hệ TTDS không phải ai cũng biết chứng cứ để chứng minh là gì, đa phần đương sự chỉ biết khởi kiện mà khó có thể tìm ra được chứng cứ, chứng minh. Bởi lẽ nhiều nguồn chứng cứ đương sự không thể tự mình cung cấp hoặc nếu đương sự tự mình cung cấp thì không đảm bảo về trình tư;, thủ tục cung cấp chứng cứ trong TTDS. Vậy nên, ngoài việc tự mình cung cấp/ giao nộp chứng cứ, chứng minh thì đương sự có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, chứng minh. Tuy nhiên, như trình bày ở trên Tòa án thực hiện chức năng xét xử nên khi đương sự có yêu cầu thì Tòa án thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh đến đâu, sẽ giải quyết đến đó.

Về nguồn chứng cứ -xác định chứng cứ:

Trên cơ sở kế thừa BLTTDS 2004, Điều 94 BLTTDS 2015 quy định 10 nguồn của chứng cứ, trong đó bổ sung thêm các nguồn: Dữ liệu điện tử; văn bản ghi nhận sự kiện pháp lý do người có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực. Tương ứng Điều 95 BLTTDS 2015 quy định cách xác định tài liệu trên là chứng cứ.

Thứ nhất: Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Trong bối cảnh khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, các nguồn chứng cứ không chỉ được quy định như BLTTDS 2004, các “dữ liệu điện tử” cũng được coi là nguồn chứng cứ. Quy định này không những phù hợp với quy định của các luật nội dung mà còn phù hợp với thực tế khách quan người dân sử dụng thư điện tử… để giao kết dân sự.

Thứ 2: Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Ví dụ như vi bằng của Thừa phát lại, được xem là chứng cứ.

Thứ ba: Đối với văn bản có công chứng, chứng thực là chứng cứ của vụ án. Nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.

Về giao nộp chứng cứ:

Do là mô hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng, trong đó có yêu cầu đảm bảo giải quyết vụ án đúng sự thật khách quan, đúng bản chất. Do vậy, đặt ra việc giao nộp chứng cứ phải đầy đủ, chặt chẽ. Điều 96 BLTTDS 2015 quy định đương sự có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án, quy trình giao nộp chứng cứ phải lập biên bản. Thời hạn giao nộp chứng cứ cũng được BLTTDS 2015 quy định chặt chẽ hơn: phải giao nộp chứng cứ ở trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trách nhiệm của thẩm phán không phải chứng cứ đương sự cung cấp đến đâu giải quyết đến đấy, như quy định của BLTTDS 2004. Điều 96 BLTTDS 2015 quy định đương sự có nghĩa vụ giao nộp tài liệu chứng cứ, còn thẩm phán có trách nhiệm xem xét, nếu thấy tài liệu chứng cứ mà đương sự giao nộp chưa đủ thì thẩm phán phải có trách nhiệm yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ. Nếu đã yêu cầu mà đương sự không cung cấp tài liệu chứng cứ thì thuộc trách nhiệm của đương sự. BLTTDS 2015 quy định rõ đối với trường hợp mà tòa án đã yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu chứng cứ, nhưng đương sự chưa cung cấp. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, đương sự muốn cung cấp tài liệu chứng cứ này thì phải nói rõ lý do vì sao trước đây không cung cấp được. Tòa chỉ chấp nhận khi nào có lý do chính đáng, để tránh trường hợp nhằm kéo dài vụ án, gây khó khăn cho việc giải quyết. Còn đối với những chứng cứ nào mà tòa án chưa yêu cầu đương sự cung cấp thì BLTTDS 2015 quy định đương sự có quyền giao nộp tại phiên tòa cũng như trong các giai đoạn tố tụng khác. Một điểm mới nữa đảm bảo các chứng cứ được công khai để thực hiện việc tranh tụng, thì trong trong trường hợp đương sự giao nộp tài liệu chứng cứ, thì đương sự phải giao bản sao cho các đương sự khác.

Về thu thập chứng cứ.

Thu thập chứng cứ trước đây BLTTDS 2004 chưa quy định rõ cơ quan, tổ chức, cá nhân thu thập tài liệu chứng cứ bằng các biện pháp nào. Điều 97 BLTTDS 2015 quy định cá nhân, cơ quan, tố chức có quyền thu thập các tài liệu, chứng cứ. Hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ có thể được tiến hành trước khi khởi kiện để đảm bảo chuẩn bị cho việc khởi kiện. Đồng thời xuất phát từ mô hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng, cho nên vai trò của người tiến hành tố tụng không chỉ giới hạn ở việc chỉ giải quyết trong phạm vi chứng cứ do đương sự cung cấp. Mà trách nhiệm của người tiến hành tố tụng đặc biệt là của thẩm phán, trong quá trình giải quyết vụ án phải thu thập đầy đủ các tài liệu chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án được khách quan toàn diện, thông qua các biện pháp như: lấy lời khai đương sự, lấy lời khai người làm chứng, đối chất, thẩm định tại chỗ, giám định, định giá tài sản… Quy định nghĩa vụ của thẩm phán trong 3 ngày làm việc kể từ khi thu thập tài liệu, chứng cứ, phải thông báo về tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự. Điều 97 thể hiện được 2 yêu cầu: yêu cầu thứ nhất trong tranh tụng là đương sự có quyền thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án; yêu cầu thứ hai là xác định trách nhiệm vai trò của Tòa án, của thẩm phán trong việc thu thập tài liệu chứng cứ theo luật định.

Về đánh giá chứng cứ.

Điều 108 BLTTDS 2015 tiếp tục kế thừa quy định của BLTTDS 2004, khẳng định Tòa án là chủ thể có nghĩa vụ đánh giá chứng cứ. Nhưng thay từ “Khẳng định giá trị pháp lý của chứng cứ” bằng từ “Khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ” cho rõ ràng hơn.

Ngoài ra, về chứng cứ và chứng minh BLTTDS 2015 còn sửa đổi, bổ sung nhiều quy định khác như: trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc thực hiện những biện pháp thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm việc thu thập chứng cứ được nhanh chóng, thuận lợi hơn, khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn; sửa đổi, bổ sung quy định về trưng cầu giám định, định giá tài sản, thẩm định giá tài sản để phù hợp với Luật giám định tư pháp, Luật giá đồng thời khắc phục khó khăn, vướng mắc hiện hành về thẩm định giá, định giá tài sản.

Xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh thu thập chứng cứ

Định giá tài sản, xem xét thẩm định tại chỗ là một biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ án nhiều người dân có hành vi cản trợ việc tòa án tổ chức định giá tài sản, xem xét thẩm định tại chỗ. Nên BLTTDS có quy định nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Hành vi cản trở người tiến hành tố tụng tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, định giá, giám định hoặc xác minh, thu thập chứng cứ khác do Bộ luật tố tụng dân sự thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

II. Thực tiễn trong việc áp dụng các điểm mới luật tố tụng dân sự về chứng cứ, chứng minh hiện nay.

Thứ nhất, quy định pháp luật được đặt ra nhưng thiếu cơ chế bảo đảm thi hành nên ít được thực hiện trên thực tế. 

Quy định tại khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015 về nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ giữa các đương sự luôn là hình thức khi mà BLTTDS 2015 không quy định về thời hạn các đương sự có nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau và hậu quả pháp lý khi các bên đương sự không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao. Thực tế hiện nay ở tại các Tòa án, do không có quy định về hậu quả pháp lý nên gần như các đương sự không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau.

Thứ hai, BLTTDS 2015 định nghĩa một cách cụ thể về người làm chứng, quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, cũng đã quy định về thủ tục lấy lời khai của người làm chứng, cụ thể tại khoản 7 Điều 78 BLTTDS 2015 người làm chứng có nghĩa vụ: “Bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do khai báo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác.” Tuy nhiên, khi quy định về điều luật này lại không tránh khỏi bất cập trong trường hợp đặc biệt, ví dụ như người làm chứng bị người khác ép buộc, đe dọa bằng cách sử dụng bạo lực từ đó mà đưa ra những lời khai sai sự thật.

Thứ ba, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Trong quá trình giải quyết các vụ án, vụ việc dân sự, phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ là rất quan trọng. Mục đích của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhằm xác định yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Tuy nhiên việc áp dụng quy định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ của Tòa án trong thực tiễn chưa thực sự phát huy được mục đích, ý nghĩa mà quy định pháp luật hướng tới. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhiều thẩm phán mới chỉ chú trọng đến việc hòa giải chứ chưa chú trọng việc tổ chức cho các đương sự tiếp cận, công khai chứng cứ để phục vụ cho việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Trong khi đó với trình độ hiểu biết pháp luật của người dân như hiện nay, đặc biệt là ở các vùng nông thôn thì đương sự không thể biết để yêu cầu Thẩm phán công khai, cho mình tiếp cận các tài liệu chứng cứ mà Tòa án thu thập hoặc đương sự khác cung cấp. Đồng thời đương sự cũng không biết việc mình phải có nghĩa vụ phải gửi chứng cứ cho đương sự khác.

Thứ tư, nghĩa vụ phải cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án nhưng không hướng dẫn thi hành chế tài. BLTTDS quy định Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nhưng hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn việc xử lý đối với cơ quan, tổ chức không cung cấp hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án không đúng thời hạn theo quy định của BLTTDS, dẫn đến Tòa án giải quyết vụ án chậm, kéo dài, gây bức xúc cho đương sự

III. Kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, để phát huy vai trò của đương sự trong hoạt động tố tụng nói chung, đảm bảo quyền được biết thông tin, tài liệu, chứng cứ, chứng minh của đương sự để có thể tổ chức việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như phù hợp pháp luật tố tụng dân sự của các nước trên thế giới, cần thiết bổ sung vào BLTTDS 2015 quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ trao đổi chứng cứ, tài liệu của các bên đương sự cho nhau trước khi mở phiên toà và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đó.

Thứ hai, BLTTDS cần quy định người nào ép buộc, xúi giục hoặc có cách hành vi khác tác động đến người làm chứng để họ đưa ra thông tin sai sự thật thì cần phải chịu chế tài. Ban hành quy định cụ thể để bảo vệ người làm chứng trong TTDS.

Thứ ba, Đẩy mạnh hơn nữa vai trò của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Nâng cao tập huấn cho những người tiến hành tố tụng về vai trò của phiên họp này để từ đó tổ chức phiên họp khách quan, thực chất, đúng trọng tâm, đúng tinh thần pháp luật, tránh thủ tục, hình thức.

Thứ tư, quy định chế tài hành chính hoặc hình sự đối với các chủ thể khi được yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ cho tòa án nhưng kéo dài hoặc không cung cấp làm ảnh hưởng đến quá trình tố tụng, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

Giấy khai sinh bị sai điều chỉnh thế nào?

Những vấn đề pháp lý mới của luật Dân Sự

Giấy khai sinh bị sai điều chỉnh thế nào?

I. Căn cứ và điều kiện để điều chỉnh thông tin trên giấy khai sinh

Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của cá nhân. Nên mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung về họ, chữ đệm, tên; ngày, tháng, năm sinh ; giới tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy khai sinh của người đó. ( giấy khai sinh của bạn chưa phù hợp với thông tin của bố mẹ bạn trên giấy khai sinh của họ nên cần được điều chỉnh). Trường hợp nội dung trong hồ sơ, giấy tờ cá nhân khác với nội dung trong Giấy khai sinh của người đó thì Thủ trưởng cơ quan, tổ chức quản lý hồ sơ hoặc cấp giấy tờ có trách nhiệm điều chỉnh hồ sơ, giấy tờ theo đúng nội dung trong Giấy khai sinh.

Đối chiếu với quy đinh của Điều 7 Nghị định 123/2015/NĐ-CP về hướng dẫn Luật hộ tịch năm 2014 về Điều kiện thay đổi, cải chính hộ tịch như sau:

1. Việc thay đổi họ, chữ đệm, tên cho người dưới 18 tuổi theo quy định tại Khoản 1 Điều 26 của Luật Hộ tịch phải có sự đồng ý của cha, mẹ người đó và được thể hiện rõ trong Tờ khai; đối với người từ đủ 9 tuổi trở lên thi còn phải có sự đồng ý của người đó.

2. Cải chính hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch là việc chỉnh sửa thông tin cá nhân trong Sổ hộ tịch hoặc trong bản chính giấy tờ hộ tịch và chỉ được thực hiện khi có đủ căn cứ để xác định có sai sót do lỗi của công chức làm công tác hộ tịch hoặc của người yêu cầu đăng ký hộ tịch.

Như vậy để cải chỉnh hay chính là điều chỉnh thông tin trong giấy khai sinh cũng như việc chỉnh sửa thông tin cá nhân trong Sổ hộ tịch chỉ được thực hiện nếu có căn cứ xác định có sai sót của công chức tư pháp hộ tịch hoặc người yêu cầu đăng ký hộ tịch. Mà bạn có nêu rằng thông tin của bạn có sự sai sót so với giấy tờ gốc của bố mẹ bạn về ngày tháng năm sinh trên giấy khai sinh của bạn. Mặc dù chưa xác định được rõ là sai sót là của bên công chức tư pháp hộ tịch hay do bên người nhà bạn, nhưng đã có cơ sở để xác định sai sót nên bạn vẫn sẽ cải chính được thông tin trên giấy khai sinh của bạn, nếu bạn làm theo các bước tiêp theo.

II. Đính chính lại thông tin trên giấy khai sinh

Hiện tại, các quy định về đính chính thông tin trên giấy khai sinh được áp dụng theo quy định Luật hộ tịch 2014 và Nghị định 123/2015/NĐ – CP.

Giấy khai sinh là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân khi được đăng ký khai sinh; nội dung Giấy khai sinh bao gồm các thông tin cơ bản về cá nhân. Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của cá nhân.Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung về họ, chữ đệm, tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy khai sinh của người đó.

Theo quy định của Luật hộ tịch 2014:

“Điều 27. Thẩm quyền đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch

Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú của cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa đủ 14 tuổi; bổ sung hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước.”

Theo quy định của Nghị định 123/2015/NĐ – CP:

“Điều 26. Thủ tục đăng ký lại khai sinh

1. Hồ sơ đăng ký lại khai sinh gồm các giấy tờ sau đây:

a) Tờ khai theo mẫu quy định, trong đó có cam đoan của người yêu cầu về việc đã đăng ký khai sinh nhưng người đó không lưu giữ được bản chính Giấy khai sinh;

b) Bản sao toàn bộ hồ sơ, giấy tờ của người yêu cầu hoặc hồ sơ, giấy tờ, tài liệu khác trong đó có các thông tin liên quan đến nội dung khai sinh của người đó;

c) Trường hợp người yêu cầu đăng ký lại khai sinh là cán bộ, công chức, viên chức, người đang công tác trong lực lượng vũ trang thì ngoài các giấy tờ theo quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này phải có văn bản xác nhận của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị về việc những nội dung khai sinh của người đó gồm họ, chữ đệm, tên; giới tính; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha – con, mẹ – con phù hợp với hồ sơ do cơ quan, đơn vị đang quản lý.

2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra, xác minh hồ sơ. Nếu việc đăng ký lại khai sinh là đúng theo quy định của pháp luật thì công chức tư pháp – hộ tịch thực hiện đăng ký lại khai sinh như trình tự quy định tại Khoản 2 Điều 16 của Luật Hộ tịch.

Nếu việc đăng ký lại khai sinh được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã không phải là nơi đã đăng ký khai sinh trước đây thì công chức tư pháp – hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân nơi đăng ký khai sinh trước đây kiểm tra, xác minh về việc lưu giữ sổ hộ tịch tại địa phương.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký khai sinh trước đây tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản về việc còn lưu giữ hoặc không lưu giữ được sổ hộ tịch.”

Nếu như nội dung trình bày nêu trên thẩm quyền giải quyết áp dụng là hai đơn vị nơi cấp mới và cũ.

Có xin được trích lục khai sinh? Làm lại giấy khai sinh ở đâu?

Có xin được trích lục khai sinh? Làm lại giấy khai sinh ở đâu?

Muốn xin trích lục giấy khai sinh có bắt buộc phải về nơi đã đăng ký? Làm lại giấy khai sinh ở đâu?

I. Trích lục giấy khai sinh thực hiện ở đâu?

Điều 63 Luật hộ tịch năm 2014 quy định:

Điều 63. Cấp bản sao trích lục hộ tịch về sự kiện hộ tịch đã đăng ký

Cá nhân không phụ thuộc vào nơi cư trú có quyền yêu cầu Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch cấp bản sao trích lục hộ tịch về sự kiện hộ tịch của mình đã được đăng ký.

Như vậy, Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch là cơ quan có thẩm quyền cấp trích lục bản sao giấy khai sinh.

Khoản 5, Điều 4 Luật hộ tịch 2014 quy định như sau:

Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch gồm cơ quan đăng ký hộ tịch, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và cơ quan khác được giao thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Theo đó, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch gồm: Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện, Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và cơ quan khác được giao thẩm quyền.

Như vậy, để xin trích lục giấy khai sinh, bạn có thế đến một trong những cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch nêu trên để làm thủ tục. Không nhất thiết phải đến cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch truớc kia khai sinh cho bé, mà bạn có thể đến nơi mà cảm thấy thuận tiện nhất cho mình. Bởi lẽ, cá nhân muốn cấp bản sao trích lục hộ tịch sẽ “không phụ thuộc vào nơi cư trú”.

Thủ tục cấp bản sao trích lục hộ tịch được quy định tại Điều 64 Luật hộ tịch 2014 như sau:

1. Người yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch trực tiếp hoặc thông qua người đại diện gửi tờ khai theo mẫu quy định cho Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch.

Trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đề nghị cấp bản sao trích lục hộ tịch của cá nhân thì gửi văn bản yêu cầu nêu rõ lý do cho Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch.

2. Ngay sau khi nhận được yêu cầu, nếu đủ điều kiện thì Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch cấp bản sao trích lục hộ tịch cho người yêu cầu.

II. Làm lại giấy khai sinh và tách hộ khẩu như thế nào?

Thứ nhất, về việc đăng ký khai sinh cho con :

Thủ tục đăng ký khai sinh 2020 tại UBND cấp xã

Bước 1: Người đi đăng ký khai sinh cho trẻ chuẩn bị các giấy tờ sau:

– Tờ khai theo mẫu;

– Giấy chứng sinh (Nếu không có giấy chứng sinh thì nộp văn bản của người làm chứng xác nhận về việc sinh; nếu không có người làm chứng thì phải có giấy cam đoan về việc sinh;

– Trường hợp khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi phải có biên bản xác nhận việc trẻ bị bỏ rơi do cơ quan có thẩm quyền lập; trường hợp khai sinh cho trẻ em sinh ra do mang thai hộ phải có văn bản chứng minh việc mang thai hộ.

Người đi khai sinh cho trẻ phải xuất trình được giấy tờ tùy thân, sổ hộ khẩu/sổ tạm trú, chứng nhận đăng ký kết hôn của cha mẹ trẻ (nếu có)…

Xem thêm: Mẫu tờ khai đăng ký khai sinh

Bước 2: Nộp giấy tờ tại UBND cấp xã nơi thường trú hoặc nơi tạm trú của cha/mẹ. Nếu không xác định được nơi cư trú của cha, mẹ thì nộp tại UBND cấp xã, nơi trẻ đang sinh sống trên thực tế.

Bước 3: Tiếp nhận hồ sơ đăng ký khai sinh và cấp Giấy khai sinh

Sau khi nhận và kiểm tra các giấy tờ trên, nếu thấy thông tin khai sinh đầy đủ và phù hợp, công chức tư pháp – hộ tịch ghi nội dung khai sinh vào Sổ hộ tịch, trình Chủ tịch UBND cấp xã ký vào bản chính Giấy khai sinh. Công chức tư pháp – hộ tịch và người đi đăng ký khai sinh cùng ký tên vào Sổ hộ tịch.

Thứ hai, việc chuyển hộ khẩu cho con bạn từ gia đình chồng sang gia đình mình :

Với trường hợp nhập hộ khẩu được quy định tại Luật cư trú sửa đổi, bổ sung năm 2013 quy định về nơi cư trú của người chưa thành niên như sau:

“1. Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống.

2. Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.”

Như vậy, theo quy định trên thì bạn hoàn toàn có thể chuyển hộ khẩu cho bạn và con bạn về nơi bạn sinh sống vì khi bạn và chồng ly hôn thì con bạn sẽ về ở với bạn .

Điều 21 Luật Cư trú đã quy định về thủ tục đăng ký thường trú như sau:

“Người đăng ký thường trú nộp hồ sơ đăng ký thường trú tại Công an huyện, quận, thị xã (đối với thành phố trực thuộc Trung ương) hoặc tại Công an xã, thị trấn thuộc huyện, Công an thị xã, thành phố thuộc tỉnh (đối với tỉnh)”.

Hồ sơ đăng ký thường trú bao gồm:

– Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu;

– Bản khai nhân khẩu;

– Giấy chuyển hộ khẩu và giấy tờ và tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp.

Theo đó, trước hết bạn cần liên hệ với cơ quan công an cấp sổ hộ khẩu, nơi con bạn đang cư trú (quê vợ bạn) để làm thủ tục chuyển khẩu, cơ quan công an sẽ cấp cho bạn Giấy chuyển hộ khẩu và nộp kèm hồ sơ như đã nêu ở trên.

Đối với trường hợp chuyển đến thành phố trực thuộc Trung ương phải có thêm tài liệu chứng minh thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 20 của Luật Cư trú và Luật hộ tịch 2014 (ví dụ như vợ về ở với chồng; chồng về ở với vợ; con về ở với cha, mẹ; cha, mẹ về ở với con; người hết tuổi lao động, nghỉ hưu, nghỉ mất sức, nghỉ thôi việc chuyển về ở với anh, chị, em ruột; người tàn tật, mất khả năng lao động, người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi về ở với anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác, cậu ruột, người giám hộ…). Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền phải cấp sổ hộ khẩu cho người đã nộp hồ sơ đăng ký thường trú; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

III. Tư vấn đăng ký khai sinh cho con?

Trong trường hợp này của bạn, giấy chứng sinh đó không phải sai do nhầm lẫn gì mà là đúng hộ khẩu thường trú của người mẹ tại thời điểm đó.Bên cạnh đó, giấy chứng sinh có ý nghĩa xác nhận sự kiện một người được sinh ra vào tại thời điểm đó chứ không có ý nghĩa xác nhận hộ khẩu thường trú theo giấy chứng sinh. Vì vậy không cần phải làm thủ tục xin cấp lại giấy chứng sinh.

Về hồ sơ mà người đi xin làm giấy khai sinh trong trường hợp này gồm có:

– Bản chính giấy chứng sinh.

– Người đi đăng ký khai sinh xuất trình bản chính một trong các giấy tờ tùy thân như: hộ chiếu, chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, hoặc giấy tờ khác có dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan có thẩm quyền cấp và còn giá trị sử dụng.

– Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của hai bố mẹ của cháu.

– Sổ hộ khẩu của bố mẹ cháu.

– Tờ khai đăng ký khai sinh

Bạn sẽ nộp những giấy tờ này tại UBND cấp xã, phường, thị trấn nơi cư trú của cha mẹ cháu. Thời hạn giải quyết cấp giấy khai sinh là trong 01 ngày. Trong trường hợp cần xác minh cũng không được quá 05 ngày làm việc.

Lưu ý:

– Làm giấy khai sinh không tính lệ phí.

– Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ phải đi khai sinh cho con. Nếu không thể đi được thì nhờ ông, bà hoặc người thân thích đi làm giùm. Quá thời hạn quy định thì bị phạt cảnh cáo.