1: Căn cứ pháp lý
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
2: Luật sư tư vấn
Căn cứ theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
- Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
- Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Như vậy, theo quy định trên, việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hôn được chia thành các trường hợp sau:
Thứ nhất: vợ chồng thỏa thuận được việc giao con cho người nào trực tiếp nuôi, hai bên không có tranh chấp về việc nuôi con theo đó, Tòa án sẽ tôn trọng quyền thỏa thuận giữa hai vợ chồng.
Thứ hai: hai vợ chồngkhông thể thỏa thuận được việc nuôi con. Lúc này, việc giao con cho ai nuôi sẽ căn cứ theo quy định của pháp luật và theo quyết định của Tòa án. Cụ thể như sau:
Đối với bé 02 tuổi: Về nguyên tắc con dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Bởi lẽ, con dưới 36 tháng tuổi cần có sự chăm sóc của người mẹ, đảm bảo được quyền lợi phát triển bình thường của trẻ em.
Đối với bé 06 tuổi: Lúc này, hai vợ chồng đều có quyền ngang nhau trong việc giành quyền nuôi con sau khi ly hôn, không thuộc các trường hợp được ưu tiên giao cho một người nuôi đối với con dưới 36 tháng tuổi và con dưới 07 tuổi. Theo đó, Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con để quyết định người trực tiếp nuôi con. Chính vì vậy, để được giành quyền nuôi con, thì vợ/ chồng phải chứng minh được một số vấn đề sau:
Điều kiện về kinh tế, vật chất:
Người vợ/ chồng phải chứng minh được mình có đầy đủ các điều kiện về vật chất như: ăn ở, sinh hoạt hàng ngày, điều kiện học tập… các yếu tố này sẽ được xét trên điều kiện về chỗ ở, tài sản, thu nhập của cô ấy. Người vợ phải chứng minh được mình có điều kiện về tài chính hơn so với người chồng, và mức thu nhập, nơi cư trú của người vợ phải đủ để đảm bảo điều kiện về nuôi dưỡng và học tập, vui chơi cho cả hai bé.
Điều kiện về tinh thần:
Căn cứ vào các điều kiện tinh thần bao gồm: thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi, giải trí, nhân cách đạo đức của cha mẹ. Do đó, người vợ phải chứng minh được mình có đủ thời gian để chăm sóc, dạy dỗ, tạo điều kiện cho cả hai bé vui chơi, giải trí.
Ngoài ra, người vợ /chồng có thể đưa ra các bằng chứng chứng minh về tư cách đạo đức của chồng/ vợ như hành vi ngoại tình, hành vi dùng bạo lực, thường xuyên đi làm việc xa nhà… để Tòa có thể xem xét.
Những hành vi như ngoại tình, có hành vi bạo lực gia đình của anh chồng tùy theo tính chất mức độ, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính. Đây sẽ là căn cứ để chứng minh anh chồng không đáp ứng được điều kiện về tinh thần, tức là có đạo đức không tốt, không đủ điều kiện để chăm sóc các con.
Như vậy, nếu muốn giành quyền nuôi con thì vợ/chồng cần chứng minh được mình đáp ứng được tất cả các điều kiện để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con cả về vật chất lẫn tinh thần để Tòa án có căn cứ giao cả hai bé cho cô ấy nuôi.