Quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn

Xu hướng hiện nay đối với các cặp đôi thường là kết hôn rất sớm, độ tuổi kết hôn trung bình của cả nam và nữ ngày càng được “trẻ hóa”. Mà kết hôn khi còn trẻ thì tỷ lệ ly hôn giữa các cặp vợ chồng lại càng cao bởi những suy nghĩ, trải nghiệm, sự thấu hiểu nhau còn hạn chế, dẫn đến tỷ lệ ly hôn gia tăng.

Kéo theo sự chia tay của một cặp vợ chồng thì vấn đề quan trọng nhất được đặt ra là những đứa con chung của họ sau ly hôn sẽ giải quyết như thế nào, làm sao để con ít tổn thương nhất và không bị ảnh hưởng đến tâm lý phát triển sau này của con. Vì thế mà việc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn là điều cần thiết.

1: Việc bảo vệ quyền lợi cho con sau khi cha mẹ ly hôn được thể hiện thông qua các nội dung sau:

Việc giao con cho ai nuôi dưỡng, giáo dục

Căn cứ vào Điều 81, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

  • Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
  • Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
  • Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Khi ly hôn, một trong những vấn đề quan trọng đó là việc xác định người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con sau này, có ý nghĩa quyết định đến cuộc sống, tương lai của con. Người trực tiếp nuôi dưỡng con sẽ là người sống cùng con, chăm sóc, quan tâm, lo lắng cho con là người có ảnh hưởng sâu sắc nhất tới sự phát triển nhân cách, thể chất, trí tuệ của con.

Theo đó, hai bên cha và mẹ sẽ thỏa thuận về việc ai là người đứng ra nhận nuôi con bởi chỉ có chính họ mới hiểu rõ về nhau, hiểu được rằng ai là người có đủ điều kiện có thể chăm sóc con; trường hợp không thể thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định trên tinh thần nguyện vọng, mong muốn của con (nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên) và xem xét khách quan người phù hợp về mọi mặt để chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ.

Riêng với trường hợp con nhỏ dưới 36 tháng tuổi thì người mẹ sẽ trực tiếp nuôi dưỡng vì ở độ tuổi này con cái cần sự chăm sóc của người mẹ hơn, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện hoặc có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Trường hợp người mẹ bị hạn chế quyền đối với con bao gồm:

– Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;

– Phá tán tài sản của con;

– Có lối sống đồi trụy;

– Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. (Căn cứ quy định Khoản 1, Điều 85, Luật Hôn nhân và gia đình 2014)

2: Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi đã ly hôn:

Sau khi ly hôn, quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng chấm dứt, nhưng quan hệ giữa cha mẹ với con cái vẫn còn. Cả hai đều phải cùng có trách nhiệm với con dù cho con đang sống với ai đi chăng nữa.

– Quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi dưỡng con: Vì là người cùng chung sống với con như trước kia, nên các quyền và nghĩa vụ của người đó với con vẫn như vậy, bao gồm:

  • Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con (Điều 71);
  • Nghĩa vụ và quyền giáo dục con (Điều 72);
  • Quyền đại diện cho con (Điều 73);
  • Quyền quản lý, định đoạt tài sản riêng của con (Điều 76, 77);
  • Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra (Điều 74).

-Quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con:

  • Mặc dù không còn là người chung sống hàng ngày với con nữa, nhưng để đảm bảo quyền lợi cho con cũng như người không trực tiếp nuôi dưỡng con được thực hiện trách nhiệm của mình thì pháp luật vẫn có những điều luật quy định vấn đề này. Cụ thể:
  • Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
  • Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
  • Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
  • Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. (Điều 82, Luật Hôn nhân và gia đình 2014)

3: Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn:

Như đã phân tích, việc giao con cho ai nuôi dưỡng phải dựa trên nguyên tắc vì quyền lợi mọi mặt của con. Khi quyền lợi của con không được đảm bảo thì vấn đề thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con được đặt ra nếu các bên có yêu cầu.

Điều kiện để Tòa án ra quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con được quy định tại Điều 84, Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể:

– Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

– Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

– Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

Những nghĩa vụ và quyền của cha mẹ sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi con vẫn không thay đổi, mà chỉ đổi vị trí vai trò của các bên đối với việc nuôi dưỡng, giáo dục con. Tòa án sẽ quyết định và xác định lại quyền và nghĩa vụ cụ thể của từng bên cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Bởi điều kiện kinh tế của hai bố mẹ có thể khác nhau, nên khi thay đổi người nuôi dưỡng trực tiếp cũng đồng nghĩa với việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng sao cho phù hợp với điều kiện của mỗi bên.

Sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi con, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng trách nhiệm của mình. Việc trực tiếp nuôi con có thể tiếp tục được thay đổi nếu nhận thấy không phù hợp.