1: Tranh chấp xác định tài sản riêng của vợ hoặc chồng
Đối với những tài sản mà một bên cho rằng đó là tài sản riêng của bên nào thì phải có nghĩa vụ chứng minh. Theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014 thì: “Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.
Như vậy đối với những tranh chấp xác định tài sản riêng nguyên đơn trong vụ án cần phải đưa các chứng cứ chứng minh rằng tài sản đó thuộc sở hữu riêng hợp pháp của mình, nếu không chứng minh được thì đương nhiên đó là tài sản chung và chia theo nguyên tắc chung.
2:Tranh chấp chia tài sản chung vợ chồng
Sau khi thực hiện xong thủ tục ly hôn không yêu cầu Tòa chia tài sản. sau đó các bên yêu cầu Tòa giải quyết chia tài sản chung thì Theo nguyên tắc tài sản của vợ chồng sẽ được chia đôi, tuy nhiên pháp luật cũng ghi nhận công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo dựng tài sản cũng như căn cứ vào lỗi của mỗi bên trong việc vi phạm quyền và nghĩa vụ vợ chồng mà phân chia tài sản vì vậy các bên phải có nghĩa vụ chứng minh được công sức tạo dựng tài sản đến đâu, chứng minh lỗi của bên vi phạm như thế nào, để dựa vào những cơ sở đó tòa án có sự phân chia công bằng,
3: Xác định khi tài sản chung vợ chồng chỉ đứng tên một người
Luật Hôn nhân và gia đình có quy định rõ về tài sản chung của vợ chồng, theo đó gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Luật cũng quy định “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng”.
Như vậy, cả trong trường hợp nếu chỉ đứng tên một người mà không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng thì theo luật vẫn bị coi là tài sản chung. Thực tế, có rất nhiều trường hợp vợ/chồng được tặng, cho hoặc thừa kế riêng tài sản và họ không nhập tài sản này vào khối tài sản chung, nhưng vì họ không thể chứng minh được việc này thì đó vẫn là tài sản chung và phải được đem chia nếu có tranh chấp.
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
-
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
-
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng
-
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”
Tài sản chung của vợ chồng mà một bên tự xác lập giao dịch thì sẽ bị vô hiệu.
Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và gia đình; quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba; sự an toàn trong giao dịch khi xác lập, thực hiện các giao dịch đối với tài sản chung của vợ chồng mà theo quy định pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng, dự thảo Luật Hôn nhân gia đình sửa đổi đã bổ sung quy định về việc đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp này.
Theo đó, việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định về căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng, đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên các giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định của Luật Hôn nhân gia đình về đại diện giữa vợ và chồng thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp có đủ căn cứ xác định người thứ ba ngay tình theo quy định của Bộ luật dân sự
Tuy nhiên, trong khi chờ sửa đổi Luật Hôn nhân gia đình thì để tránh những rắc rối phát sinh trong phân chia tài sản vợ, chồng thì cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân hiểu việc đứng tên cả hai người là yêu cầu chính đáng và do luật định. Nếu tài sản trong hôn nhân chỉ đứng tên một người thì không những khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp mà trong cả các giao dịch thường ngày (như chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp, tặng cho…). Đặc biệt, các cơ quan chức năng khi làm các thủ tục liên quan (nhất là chuyển nhượng) cần kiểm soát, xác minh chặt để tránh việc làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người còn lại có quyền sở hữu/sử dụng chung