Không cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn giải quyết thế nào?

Không cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn giải quyết thế nào?

I. Không thực hiện cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn phải giải quyết như thế nào?

Trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo Quyết định ly hôn của Tòa án thì có thể giải quyết theo các hướng như sau:

Thứ nhất, Theo hướng dân sự Yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.

* Những người có thẩm quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bao gồm:

1/ Người được cấp dưỡng

2/Cha, mẹ hoặc người giám hộ

3/ Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình

4/ Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em

5/ Hội liên hiệp phụ nữ

Điều 119. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ( Luật Hôn nhân và gia đình 2014 )

1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.

2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:

a) Người thân thích;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ.

3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.

Thứ hai, Theo hướng Hình sự

Việc trốn tránh nghĩa vụ, không cấp dưỡng con sau ly hôn,  không những bị xử lý về dân sự mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự cụ thể được quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể là việc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm

– Phạt cảnh cáo,

– Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm

– Phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Điều 186. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng ( Bộ luật Hình sự 2015 )

Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

II. Phương thức cấp dưỡng khi ly hôn?

Theo quy định của pháp luật cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Do đó, khi ly hôn mà anh không nuôi con thì có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau ly hôn.

– Về mức cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật HNGĐ: “mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết” (điều 116, Luật HNGĐ 2014)

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

– Về phương thức cấp dưỡng (Điều 117, Luật HNGĐ 2014):

Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.

Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Như vậy, mức trợ cấp cho con trước hết sẽ theo thỏa thuận của vợ chồng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của anh và chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng học hành của người con, nếu không thỏa thuận được thì anh có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo quy định tại Điều 119 Luật HNGĐ về người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng:

1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó”.

Nếu chồng không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con thì vợ hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án buộc anh thực hiện nghĩa vụ đó.

Ngoài khoản tiền trợ cấp nuôi con, vợ anh có đòi thêm một khoản tiền, đó có thể là tiền cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn, theo đó khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Chồng phải thực hiện khoản tiền cấp dưỡng này sau ly hôn nếu vợ trong trường hợp khó khăn, túng thiếu như chưa có việc làm, không có thu nhâp … và chỉ phải thực hiện khi vợ chưa kết hôn với người khác.

III. Sau khi ly hôn, vợ không cho gặp con thì xử lý thế nào?

Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1, Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2, Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3, Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Theo đó, bạn có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, đó là quyền của cha, mẹ khi mà không được trực tiếp nuôi con, không ai được cản trở quyền đó vì đó là quyền cơ bản của mỗi người cha, mẹ. Người trực tiếp đang nuôi con cũng không có quyền cản trở người không trực tiếp nuôi con gặp con theo quy định như sau:

Điều 83. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1, Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

2, Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Hành vi bạo lực gia đình theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007:

Điều 2. Các hành vi bạo lực gia đình

d, Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

Theo quy định tại nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực an toàn xã hội, an ninh trật tự;phòng chống tệ nạn xã hội, phòng cháy chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình thi vợ bạn có thể bị phạt như sau:

“Điều 53. Hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau như sau:

Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.”

IV. Cách xác định mức cấp dưỡng?

Tiền cấp dưỡng con sau ly hôn được Theo mục 11 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của hội đồng thẩm phán quy định tiền cấp dưỡng nuôi con : “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tùy vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý…”.

Khi quyết định mức tiền trợ cấp nuôi con, tòa án sẽ căn cứ vào mức thu nhập của người trợ cấp, vì vậy mức cấp dưỡng thường không cao hơn mức thu nhập của người trợ cấp.

Tuy nhiên, trong trường hợp mức cấp dưỡng nuôi con tòa án phán quyết vẫn vượt quá khả năng của người cấp dưỡng thì người cấp dưỡng có quyền làm đơn đề nghị tòa án xem xét lại mức cấp dưỡng.

Tòa án căn cứ vào độ tuổi của người con được trợ cấp để xác định mức cấp dưỡng cho con.

Tòa án cũng căn cứ vào điều kiện sống của người con, mức cấp dưỡng không có sự thay đổi quá lớn ảnh hưởng đến cuộc sống của con.

Quyền và nghĩa vụ của con cái trong gia đình?

Quyền và nghĩa vụ của con cái trong gia đình?

Quyền và nghĩa vụ của con cái trong gia đình được quy định như thế nào?

1. Quyền và nghĩa vụ của con trong gia đình là gì?

Căn cứ theo Điều 70 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định thì quyền và nghĩa vụ của con như sau:

“Điều 70. Quyền và nghĩa vụ của con

1. Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.

2. Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.

3. Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc.

Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

4. Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình.

5. Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình.”

Trong quy định theo Điều 70 thì bạn có quyền lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú theo ý muốn của bạn nên bố mẹ không có quyền can thiệp điều này. Nhưng một điều quan trọng hơn cả quy định pháp luật là tình cảm gia đình, tình cảm thiêng liêng của mối quan hệ máu mủ nên bạn cũng nên suy nghĩ cho thấu đáo, vì chuyện gia đình tình cảm mới quan trọng và cần lấy tình cảm để giải quyết chuyện tình cảm chứ không nên vội vàng lấy pháp luật ra làm căn cứ để giải quyết.

II. Nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái sau khi ly hôn?

– Căn cứ vào Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình:

“Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vậy nếu người chồng có nhứng hành vi lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người vợ có thể yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm con của người đó.

III. Ly hôn và con cái được chia tài sản?

Theo quy định tại điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 , khi ly hôn, việc chia tài sản sẽ thực hiện theo nguyên tắc sau:

“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”

Theo điều luật trên, khi ly hôn, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, tức là không bắt buộc phải chia cho các con. Mặc dù vậy, hai bên có thể thỏa thuận cho toàn bộ hoặc một phần tài sản cho con. Việc tặng cho phải lập thành hợp đồng tặng cho có công chứng chứng thực. Ngoài ra, việc chia tài sản được xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên.

IV. Giải quyết tranh chấp về tài sản, con cái khi ly hôn?

1. Về tài sản chung là căn hộ chung cư:

Pháp luật ưu tiên sự thỏa thuận chia tài sản của hai bên vợ chồng, tuy nhiên, trường hợp vợ chồng không tự thỏa thuận được với nhau mà yêu cầu Tòa án giải quyết thì việc chia tài sản sẽ phải thực hiện theo nguyên tắc: chia đôi.

Và nguyên tắc: Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật.

Trong trường hợp của bạn, tài sản tranh chấp là một căn chung cư, nên chia bằng hiện vật là khó, nên Tòa án có thể áp dụng cách thức chia tài sản theo giá trị, bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

Để đảm bảo việc chia tài sản được công bằng, khách quan thì Tòa án sẽ căn cứ vào bốn yếu tố sau để chia tài sản:

  • Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
  • Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
  • Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
  • Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Tuy nhiên bạn cũng cần lưu ý rằng, khi chia tài sản trong trường hợp có tranh chấp thì các bên sẽ phải nộp án phí tương đương với phần giá trị tài sản được chia, tài sản chung vợ chồng được định giá là 1 tỷ 400 triệu đồng, nếu nộp án phí sẽ là: 36 triệu đồng và 3% của 900 triệu , tương đương 37 triệu 676 nghìn đồng, tiền án phí khá lớn, bạn cần cân nhắc về việc tranh chấp tài sản.

2. Về khoản nợ vay tín chấp chưa trả hết

Về nguyên tắc, trường hợp những khoản nợ mà vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập thì sẽ do vợ chồng cùng phải trả, các khoản nợ cũng được chia đôi cho hai vợ chồng cùng có nghĩa vụ trả nợ.

Tuy nhiên, trong trường hợp này, bạn có nói bạn đứng tên vay một khoản vay tín chấp, đối với vay tín chấp thì không có việc thế chấp tài sản vì thế khi chồng bạn không muốn trả nợ thì cũng không có căn cứ buộc phải trả. Nếu như bạn muốn việc trả nợ là cả hai vợ chồng đều cùng phải có nghĩa vụ thì bạn cần chứng minh về mục đích vay tiền là để sử dụng vào mục đích chung của gia đình như: dùng để mua nhà, dùng để tiêu dùng nhu cầu gia đình…

3. Về quyền trực tiếp nuôi con chung

Đối với hai cháu lớn, vì đã đủ 7 tuổi nên áp dụng theo quy định của Luật hôn nhân gia đình, tòa sẽ giải quyết theo nguyện vọng của con.

Đối với cháu 5 tuổi, nếu hai bạn thỏa thuận được về người nuôi con thì Tòa sẽ quyết định theo thỏa thuận của hai cha mẹ, trường hợp hai bạn không thỏa thuận được và yêu cầu Tòa tự giải quyết thì Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của con và điều kiện, khả năng chăm sóc của cha mẹ để giao con cho một người nuôi.

Những điều kiện mà Tòa xem xét cho người được trực tiếp nuôi con gồm có:

– Khả năng về kinh tế của cha mẹ

– Khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ

– Môi trường sống, hoàn cảnh gia đình của mỗi bên…

Quyền nuôi con trên 7 tuổi khi cha mẹ ly hôn ?

Quyền nuôi con trên 7 tuổi khi cha mẹ ly hôn ?

I. Quyền nuôi con trên 7 tuổi khi cha mẹ ly hôn? Con 7 tuổi có quyền lựa chọn ở với bố hoặc với mẹ khi bố mẹ ly hôn không?

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình có 02 trường hợp ly hôn là:

– Ly hôn thuận tình ( Quy định tại điều 55, Luật hôn nhân và gia đình 2014 )

– Ly hôn đơn phương ( ly hôn theo yêu cầu một bên ) ( Quy định tại điều 56, Luật hôn nhân và gia đình 2014 )

Trong cả hai trường hợp ly hôn nêu trên thường vợ chồng vẫn xảy ra tranh chấp với nhau về quyền nuôi con và tài sản chung. Cụ thể khi vợ chồng tranh chấp với nhau về quyền nuôi con thì Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về các độ tuổi của con như sau:

Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Căn cứ theo quy định trên có thể thấy:

– Con dưới 36 tháng tuổi (dưới 3 tuổi): Sẽ giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện nuôi.

– Con từ đủ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi: Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt giành cho con (trong đó có mặt vật chất (điều kiện kinh tế của bố hoặc mẹ…) và tinh thần (tình cảm giành cho con….) ai có điều kiện hơn sẽ có .

– Quyền nuôi con trên 7 tuổi: Trường hợp này phải xem xét nguyện vọng của con.

Cách viết đơn trình bày nguyện vọng của con đủ 7 tuổi:

Khi con đủ 7 tuổi để Tòa án xem xét nguyện vọng của con thì con cần viết đơn trình bày nguyện vọng đó của con cho Tòa án, để Tòa án xem xét và giải quyết nguyện vọng đó.

II. Làm thế nào để có quyền nuôi con trên 7 tuổi khi ly hôn?

Theo Mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình do Quốc hội ban hành quy định:

3. Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:

a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.

Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;

c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.

– Theo điều 54 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định thụ lý đơn yêu cầu ly hôn:

Điều 53. Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn

1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

Như vậy, theo quy định bạn có thể gửi đơn tới tòa án nơi bạn cư trú để yêu cầu tòa Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng. Tòa án sẽ thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng.

– Theo Điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:

Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Theo quy định trên, các đương sự có thể thỏa thuận người trực tiếp nuôi con và thỏa thuận này được Tòa án ghi nhận trong Bản án. Nếu các đương sự không thỏa thuận được người trực tiếp có quyền nuôi con trên 7 tuổi sau khi ky hôn thì Tòa án sẽ quyết định vấn đề này căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con và tuân theo nguyên tắc con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng (trừ trường hợp người mẹ không muốn nuôi dưỡng). Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét đến nguyện vọng của con.

Để giành được quyền nuôi con trên 7 tuổi thì bạn nên cung cấp cho Tòa án những căn cứ chứng minh điều kiện vật chất, yếu tố tinh thần, tình cảm bạn dành cho con. Đồng thời cung cấp căn chứng chứng minh vợ của anh bạn đã làm một số chuyện trái với lương tâm và không phải là một người vợ chung thuỷ. Đây là những căn cứ quan trọng chứng minh vợ của anh bạn không có môi trường chăm sóc cho con tốt. Sau đó Tòa án sẽ có quyết định cuối cùng.

III. Cách giải quyết tranh chấp về người nuôi con sau khi ly hôn?

Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về quyền nuôi con khi ly hôn thì vợ chồng bạn có thể thỏa thuận về người nuôi con sau khi ly hôn. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong trường hợp này con của bạn đã được 37 tháng nên Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Nếu bên nào có điều kiện tốt hơn đảm bảo cho sự phát triển của con thì bên đó sẽ có quyền nuôi con. Người nào không trực tiếp nuôi con sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:

“Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”

IV. Ly hôn vào thời điểm nào để được nuôi cả hai con?

Về thủ tục ly hôn

Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định về trường hợp đơn phương ly hôn như sau:

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ củavợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”

Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số điều của Luật hôn nhân gia đình hướng dẫn tại mục 8 như sau:

“a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được.

a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:

– Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

– Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

– Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;

a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.

a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.”

Về thời điểm ly hôn để có thể nuôi cả 2 con.

Quyền yêu cầu ly hôn theo quy định tại điều 51 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định “3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.” Như vậy, pháp luật không hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của vợ đang mang thai.

Theo thông tin bạn trình bày thì bạn đang có thai 12 tuần và một con trai 16 tháng tuổi. Theo điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014 quyền nuôi con sau ly hôn theo nguyên tắc sau:

“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Điều kiện kết hôn với người trong ngành công an hiện nay?

Điều kiện kết hôn với người trong ngành công an hiện nay?

I. Điều kiện kết hôn với người trong ngành công an hiện nay?

Vì ngành công an có đặc thù riêng, phải tuân thủ những nguyên tắc hoạt động quy định tại Điều 5 Luật Công an nhân dân 2014:

“1. Công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an.

2. Công an nhân dân được tổ chức tập trung, thống nhất và theo cấp hành chính từ trung ương đến cơ sở.

3. Hoạt động của Công an nhân dân phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”

Ngoài ra, khi xét kết hôn với công an thì cần thẩm tra lý lịch 3 đời:

Các điều kiện cơ bản không lấy chồng (vợ) công an:

1. Gia đình làm tay sai cho chế độ phong kiến, Nguy quân, Ngụy quyền

2. Bố mẹ hoặc bản thân có tiền án hoặc đang chấp hành án phạt tù.

3. Gia đình hoặc bản thân theo Đạo thiên chúa, Cơ đốc, Tin lành…

4. Gia đình hoặc bản thân là người dân tộc Hoa.

5. Bố mẹ hoặc bản thân là người nước ngoài (kể cả đã nhập tịch)

Ngoài ra còn một số các quy định khác nhưng cũng tùy thuộc vào từng địa phương.

Mà theo quy định của ngành công an nhân dân, mỗi cán bộ chiến sĩ khi xây dựng gia đình phải có lập trường, tư tưởng vững vàng, xác định tương lai hạnh phúc của mình thật sự chín chắn để quyết định đi đến hôn nhân. Nếu đã xác định lập trường tư tưởng thì mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tự viết đơn xin tìm hiểu gia đình, viết hai đơn, một đơn nộp cho đơn vị công tác, một đơn nộp cho Phòng tổ chức cán bộ. Thời gian tìm hiểu từ ba đến sáu tháng, tùy thuộc vào mức độ tình cảm của hai bên.

Qua thời gian tìm hiểu và quyết định đi đến hôn nhân thì bản thân phải tự viết đơn xin xây dựng gia đình như trình tự trên. Cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân phải động viên người bạn đời của mình kê khai lý lịch cho thật đầy đủ. Trong lý lịch phải khai cả ba đời; quá trình hoạt động của ba đời trước và sau năm 1975; có ai theo “chế độ cũ” không? Có thân nhân xuất cảnh không? Có theo tôn giáo nào không?…

Phòng Tổ chức cán bộ sẽ thẩm tra, xác minh người sẽ dự định cưới và tất cả những người thân trong gia đình tại nơi sinh sống và nơi làm việc. Thời gian thẩm tra, xác minh từ 2 đến 4 tháng, nếu không có gì trở ngại thì Phòng Tổ chức cán bộ sẽ gửi Thông báo cho phép xây dựng gia đình đến đơn vị công tác, lúc đó các bên mới tiến hành đăng ký kết hôn và tổ chức cưới.

Trường hợp lý lịch không phù hợp thì Cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân chỉ có 2 con đường lựa chọn:

– Sự nghiệp

– Tình yêu

Như vậy, dựa vào những quy định trên thì bạn có thể lấy chồng công an. Tuy nhiên, trong nội bộ Cơ quan sẽ có những quy định riêng và chi tiết mà không thể biết hết được, người yêu bạn nên hỏi ý kiến của Thủ trưởng tại đơn vị mà người yêu bạn đang công tác.

II. Điều kiện để kết hôn với bạn trai làm trong ngành công an?

Về việc kết hôn với người thuộc ngành công an phải đáp ứng các điều kiện sau:

1. Đáp ứng đủ các điều kiện theo qui định của luật hôn nhân và gia đình (điều kiện kết hôn, không thuộc các trường hợp cấm kết hôn)

2. Đáp ứng các điều kiện theo quy định trong nội bộ ngành công an ( thông thường là thẩm tra lý lịch ba đời).

Thường thì thẩm tra lý lịch 3 đời. Nếu trong gia đình bạn có một hoặc nhiều đảng viên thì thẩm tra 2 đời cũng được (Tùy thuộc vào người đi thẩm tra).

Các điều kiện cơ bản không lấy chồng (vợ) công an:

1. Gia đình làm tay sai cho chế độ phong kiến, Nguy quân, Ngụy quyền

2. Bố mẹ hoặc bản thân có tiền án hoặc đang chấp hành án phạt tù.

3. Gia đình hoặc bản thân theo Đạo thiên chúa, Cơ đốc, Tin lành…

4. Gia đình hoặc bản thân là người dân tộc Hoa.

5. Bố mẹ hoặc bản thân là người nước ngoài (kể cả đã nhập tịch)

Bên cạnh đó, còn một số các quy định khác nhưng cũng tùy thuộc vào từng địa phương.

Nội dung cụ thể của việc xét lý lịch bạn có để hỏi rõ tại công an quận (huyện) nơi bạn sinh sống. Nó bao gồm một số tiêu chuẩn như (bạn tham khảo):

1. Không có cha, mẹ, cô, bác, anh em ruột vi phạm luật pháp nghiêm trọng như phản quốc, làm việc cho địch,…;
2. Không theo đạo, trừ Phật Giáo;
3. Phẩm chất tốt, không vi phạm pháp luật để có tiền án, tiền sự;

Với trường hợp của bạn, ví trong giấy khai sinh của bạn không có tên cha nên quan hệ cha con chưa được xác lập và các bên không có quyền và nghĩa vụ với nhau. Theo đó bạn không phải kê khai lý lịch của cha bạn. Để biết chắc chắn câu trả lời bạn trai bạn có thể hỏi trực tiếp thủ trưởng cơ quan nơi công tác.

III. Có án tích thì có được kết hôn với công an không?

Theo quy định tại Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội thì:

Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba.

Khi kết hôn trong ngành công an thì bạn cần tuân thủ về việc thẩm tra lý lịch 3 đời tình từ đời ông bà của bạn, cha mẹ bạn và bạn. Việc thẩm tra lý lịch này còn phụ thuộc vào phòng tổ chức cán bộ sẽ thẩm tra, xác minh người sẽ dự định cưới và tất cả những người thân trong gia đình tại nơi sinh sống và nơi làm việc.

Thời gian thẩm tra, xác minh từ 2 đến 4 tháng, nếu không có gì trở ngại thì Phòng Tổ chức cán bộ sẽ gửi Thông báo cho phép xây dựng gia đình đến đơn vị công tác, lúc đó các bên mới tiến hành đăng ký kết hôn và tổ chức cưới. Nếu trong trường hợp của bạn thì có thể bạn được kết hôn trong ngành công an.

Trên thực tế, việc xác minh, thẩm tra lý lịch ba đời còn phụ thuộc vào quy chế nội bộ của từng đơn vị, lực lượng

Trong trường hợp người đăng ký kết hôn là cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong lực lượng vũ trang, thì thông báo cho Thủ trưởng đơn vị của người đó biết. Theo đó, thủ trưởng đơn vị nơi người yêu bạn đang công tác trong lực lưởng vũ trang sẽ tiến hành việc kiểm tra lý lịch tư pháp của cá nhân và thân nhân của người có ý định đăng ký kết hôn với công an dựa trên các quy chuẩn, cụ thể:

– Gia đình làm tay sai cho chế độ phong kiến, Nguy quân, Ngụy quyền;

– Bố mẹ hoặc bản thân có tiền án hoặc đang chấp hành án phạt tù;

– Gia đình hoặc bản thân theo Đạo thiên chúa, Cơ đốc, Tin lành…;

– Gia đình hoặc bản thân là người dân tộc Hoa;

– Bố mẹ hoặc bản thân là người nước ngoài (kể cả đã nhập tịch).

Như vậy, trong trường hợp này, bạn vẫn có thể tiến hành việc kết hôn với bạn trai kia, bởi lẽ, điều kiện chỉ đặt ra đối với trường hợp bố, mẹ của bạn hoặc bản thân bạn có tiền án hay đang chấp hành hình phạt tù, mà không hề ghi nhận điêu kiện này với anh, chị, em ruột của người có ý định kết hôn với người làm việc trong lực lượng vũ trang.

IV. Theo đạo tin lành có được kết hôn với công an không ?

Trong trường hợp người đăng ký kết hôn là cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong lực lượng vũ trang, thì thông báo cho Thủ trưởng đơn vị của người đó biết. Theo đó, thủ trưởng đơn vị nơi người yêu bạn đang công tác trong lực lưởng vũ trang sẽ tiến hành việc kiểm tra lý lịch tư pháp của cá nhân và thân nhân của người có ý định đăng ký kết hôn với công an dựa trên các quy chuẩn, cụ thể:

– Gia đình làm tay sai cho chế độ phong kiến, Nguy quân, Ngụy quyền;

– Bố mẹ hoặc bản thân có tiền án hoặc đang chấp hành án phạt tù;

– Gia đình hoặc bản thân theo Đạo thiên chúa, Cơ đốc, Tin lành…;

Gia đình hoặc bản thân là người dân tộc Hoa;

– Bố mẹ hoặc bản thân là người nước ngoài (kể cả đã nhập tịch).

Với trường hợp của bạn, để hai bạn tiến tới cuộc sống gia đình thì chỉ có một cách duy nhất đó là bạn trai bạn phải ra khỏi ngành công an.

Hủy việc kết hôn trái pháp luật trong những trường hợp nào?

Hủy việc kết hôn trái pháp luật trong những trường hợp nào?

Hủy việc kết hôn trái pháp luật trong những trường hợp nào?

I. Thế nào kết hôn trái pháp luật?

Khoản 6 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định việc kết hôn trái pháp luật là việc là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo Điều 8 quy định về các điều kiện kết hôn nhau sau:

Điều 8. Điều kiện kết hôn 1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.

Như vậy, kết hôn bị coi là trái pháp luật trong các trường hợp sau:

– Chưa đủ tuổi kết hôn: nam chưa đủ 20 tuổi hoặc nữ chưa đủ 18 tuổi;

– Việc kết hôn do nam và nữ không đảm bảo tính tự nguyện;

– Một trong hai người bị mất năng lực hành vi dân sự;

– Kết hôn giả tạo. Trong đó kết hôn giả tạo được hiểu là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.;

– Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn;

– Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

– Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

II. Những người có thẩm quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật

Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định những người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật:

Điều 10. Người có thẩm quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật

1. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này.

2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:

a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ.

3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.

Như vậy, có những người có quyền yêu cầu bao gồm:

– Bản thân người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn tự mình yêu cầu hoặc có quyền đề nghị cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định;

– Nếu việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm các điểm a,c, d khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì các cơ quan, cá nhân, tổ chức sau có quyền yêu cầu:

– Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;

– Cơ qua quản lý nhà nước về gia đình;

– Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

– Hội liên hiệp phụ nữ.

III. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật?

Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định như sau:

– Trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn nhưng việc kết hôn đăng ký tại không đúng cơ quan có thẩm quyền (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) => yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ đồng thời hủy Giấy chứng nhận kết hôn và thông báo cho cơ quan hộ tịch đã đăng ký kết hôn để xử lý theo quy định.

– Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ.

– Trường hợp tại thời điểm kết hôn, hai bên kết hôn không có đủ điều kiện kết hôn nhưng sau đó có đủ điều kiện kết hôn thì Tòa án sẽ giải quyết theo một trong các hướng sau:

+ Nếu hai bên kết hôn cùng yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án quyết định công nhận quan hệ hôn nhân đó kể từ thời điểm các bên kết hôn có đủ điều kiện kết hôn.

+ Nếu một hoặc hai bên yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc có một bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân hoặc có một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia không có yêu cầu thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trường hợp có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thì quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm kết hôn đến thời điểm hủy việc kết hôn trái pháp luật được giải quyết theo quy định tại Điều 12 của Luật hôn nhân và gia đình.

+ Trường hợp hai bên cùng yêu cầu Tòa án cho ly hôn hoặc có một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Trường hợp này, quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con từ thời điểm kết hôn đến thời điểm ly hôn được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm kết hôn đến trước thời điểm đủ điều kiện kết hôn được giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình ( Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn) ; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm đủ điều kiện kết hôn đến thời điểm ly hôn được giải quyết theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình ( Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn).

– Trường hợp hai bên đã đăng ký kết hôn nhưng tại thời điểm Tòa án giải quyết hai bên kết hôn vẫn không có đủ các điều kiện kết hôn quy định thì thực hiện như sau:

+ Nếu có yêu cầu thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật;

+ Nếu một hoặc cả hai bên yêu cầu ly hôn hoặc yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án bác yêu cầu của họ và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.

IV. Thủ tục để yêu cầu giải quyết

– Hồ sơ cầu có các tài liệu sau:

+ Đơn yêu cầu giải quyết;

+ Giấy chứng nhận kết hôn đối với cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình hoặc giấy tờ, tài liệu khác chứng minh đã đăng ký kết hôn; tài liệu, chứng cứ chứng minh việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn quy định pháp luật theo Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình.

– Cơ quan có thẩm quyền giải quyết: Tòa án nhân dân ( theo pháp luật về Tố tụng dân sự).

V. Hậu quả

– Khi bị hủy việc kết hôn thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.

– Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn.

– Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo trường hợp ” Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ hợp đồng của nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” ( quy định tại Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình).

Hợp đồng trong hôn nhân có được công nhận tại Việt Nam?

Hợp đồng trong hôn nhân có được công nhận tại Việt Nam?

Hợp đồng trong hôn nhân có được công nhận tại Việt Nam? Làm thế nào để ly hôn khi đối phương đang ở nước ngoài?

I. Hợp đồng hôn trong nhân có hợp pháp không?

Hợp đồng trong hôn nhân; Hợp đồng tiền hôn nhân hoặc hôn ước đều là tên gọi nhằm để chỉ những thỏa thuận của hai người về những vấn đề liên quan xoay quanh đời sống hôn nhân. Ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại các nước tiến bộ, việc các cặp đôi thiết lập hợp đồng hôn nhân trước khi kết hôn trở nên phổ biến. Thậm chí ở nhiều nơi, họ quan niệm chính việc kết hôn là một hơp đồng.

Ở Việt Nam, mặc dù hợp đồng hôn nhân còn khá lạ lẫm với nhiều người. Nhưng ít ai biết rằng, pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đã có quy định cụ thể, tạo hành lang pháp lý giúp cho các cặp đôi thiết lập hợp đồng hôn nhân. Cụ thể, tại Điều 47 Luật Hôn nhân & Gia đình 2014 quy định như sau:

“Điều 47. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng
Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.”

Vởi quy định trên, pháp luật Việt Nam cho phép các cặp đôi được thỏa thuận với nhau những vấn đề về tài sản giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Theo khoản 1 Điều 48 thì vấn đề tài sản trong thời kỳ hôn nhân bao gồm:

– Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;

– Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;

– Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;

– Nội dung khác có liên quan.

Như vậy, mặc dù Luật Hôn nhân và Gia đình không hề quy định rõ ràng về hợp đồng hôn nhân. Tuy nhiên, xét về bản chất, khi các cặp đôi thỏa thuận với nhau về chế độ tài sản thì cũng tương đương với việc giao kết một hợp đồng. Bởi lẽ, đó đều là việc 2 người đồng thuận trao cho nhau những quyền và nhận về những nghĩa vụ để thực hiện một công việc hợp pháp, mà cụ thể ở đây chính là trở thành vợ chồng của nhau. Chính vi vậy, việc lập hợp đồng hôn nhân với nội dung bao gồm những thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hoàn toàn hợp pháp.

Cần lưu ý rằng, pháp luật Việt Nam chưa cho phép các cặp đôi được thỏa thuận với nhau về những vấn đề còn lại của đời sống hôn nhân như vấn đề con cái hoặc các vấn đề hộ tịch khác. Bởi lẽ, việc thỏa thuận những vấn đề này có thể làm phát sinh những loại tội phạm về buôn người, rửa tiền, trốn thuế hay nhập cư trái phép.

II. Hiệu lực của hợp đồng hôn nhân

Theo quy định tại Điều 47, hợp đồng hôn nhân chỉ có hiệu lực khi 2 những thỏa thuận được lập thành văn bản và được công chứng, chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền.

Hợp đồng hôn nhân sẽ phải được lập trước và chính thức có hiệu lực kể từ thời điểm 2 vợ chồng ký vào giấy đăng ký kết hôn. Và trong tương lai, nếu trong trường hợp 2 người ly hôn thì những thỏa thuận này cũng chấm dứt và là căn cứ để giải quyết ly hôn.

  1. Lơi ích của hợp đồng hôn nhân
  • Phân định tài sản

Hợp đồng hôn nhân được thiết lập nhằm phân định rõ ràng tài sản nào là tài sản riêng của từng người, tài sản nào là tài sản mà cả hai góp làm tài sản chung. Hoặc cả vợ và chồng sẽ dành ra cụ thể bao nhiêu tiền hàng tháng để lo cho cuộc sống chung của gia đình. Số còn lại sẽ được người nắm giữ độc lập quản lý và phát triển.

Hợp đồng hôn nhân sẽ rất có ích với những cặp vợ chồng có nguồn thu nhập, tài chính ổn định và hiện đại trong tư duy. Đồng thời, nó cũng rất phù hợp với những trường hợp được thừa kế, được tặng cho tài sản mà người nhận muốn giữ làm tài sản riêng.

  • Giảm thiểu những tranh cãi, mâu thuẫn về tiền bạc

Tiền bạc là nguyên nhân chủ yếu của nhiều cuộc cãi vã, mâu thuẫn trong đời sống hôn nhân. Vì vậy, hợp đồng hôn nhân với những thỏa thuận rõ ràng về vấn đề tài sản sẽ giúp các cặp đôi giảm thiểu tối đa những mâu thuẫn về tiền bạc trong suốt thời kỳ hôn nhân.

  • Giải quyết ly hôn nhanh chóng, tiết kiệm

Dù không ai muốn nhưng nếu chẳng may trong trường hợp xấu nhất, cuộc hôn nhân của hai người có đổ vỡ. Hợp đồng hôn nhân sẽ giúp cho quá trình giải quyết ly hôn diễn ra nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, tiền bạc và không gây thêm những tổn thất về mặt tinh thần cho cả 2 bên. Vấn đề tài sản là vấn đề lớn cần nhiều thời gian để thẩm định và phân chia nhất. Vì vậy, khi đã có những thỏa thuận rõ ràng, tòa án sẽ căn cứ vào hợp đồng hôn nhân để giải quyết vấn đề liên quan tới tài sản.

III. Thủ tục ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Ly hôn có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là khi người bên kia không hợp tác để giải quyết, né tránh liên hệ là điều rất hay gặp phải. Điều này sẽ gây khó khăn cho công tác giải quyết ly hôn để bắt đầu một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.

Ly hôn có yếu tố nước ngoài luôn rất phức tạp.

Ly hôn là lựa chọn cuối cùng khi cuộc sống vợ, chồng trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Ly hôn có yêu tố nước ngoài là các trường hợp mà các đương sự ở nước ngoài, một bên đương sự là người nước ngoài, hoặc có tài sản tại nước ngoài…

Dễ thấy việc ly hôn có yếu tố nước ngoài ngày cảng trở nên phổ biến do sự phát triển của kinh tế xã hội cũng như tư duy mở hơn về những mối quan hệ xuyên biên giới.

Trong bài viết này tôi muốn nói chi tiết hơn về việc ly hôn khi chồng hoặc vợ ở nước ngoài mà cố tình che giấu địa chỉ của mình.

IV. Giải pháp khi đương sự che giấu địa chỉ tại nước ngoài khi ly hôn

Mặc dù vẫn có thể liên hệ, thậm chí là về thăm gia đình nhưng nhiều đương sự không chấp nhận việc bị ly hôn dẫn đến hành vi che giấu, không cung cấp địa chỉ để tòa gửi văn bản liên quan đến vụ việc.

Trong trường hợp của bạn, chồng bạn không hợp tác để làm thủ tục ly hôn, do đó sẽ xét xử theo trường hợp ly hôn đơn phương.

Theo quy định tại Điều 28 và Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì việc giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình hay yêu cầu về hôn nhân và gia đình đều thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp Huyện. Tuy nhiên vì đây là vụ việc có yếu tố nước ngoài nên Tòa án nhân dân cao hơn 1 cấp (Tòa án nhân dân cấp Tỉnh) sẽ là cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Che giấu địa chỉ là hành động ngăn cản quyền ly hôn của công dân, Tòa án nhân dân tối cao đã có những hướng dẫn cụ thể khi có những phản ánh về khó khăn trong giải quyết vụ việc bằng văn bản số 253/TANDTC-PC ngày 26 tháng 11 năm 2018 Về việc giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ.

V. Ly hôn khi đương sự không cung cấp địa chỉ.

Theo đó, khi gặp phải những trường hợp tương tự, công dân có thể giải quyết như sau:

– Nộp hồ sơ ly hôn đầy đủ theo quy định tại Tòa án nhân dân cấp Tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị đơn;

– Tòa án nhân dân sẽ thẩm định, liên hệ người thân và khi có những dấu hiệu cho rằng người thân cố tình không cung cấp, che giấu địa chỉ phía bị đơn nước ngoài thì sẽ gửi văn bản lần 2 yêu cầu. Trong trường hợp vẫn không có phản hồi tích cực, tòa án sẽ tiến hành giải quyết phiên tòa theo thủ tục vắng mặt.

Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con?

Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con?

I. Quy định luật hôn nhân trước đây về vấp dưỡng nuôi con.

Đối với quan hệ giữa cha, mẹ và con, giữa ông bà và cháu thì phát sinh quan hệ nuôi dưỡng. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lí, trong thực tế đời sống cũng như trong việc áp dụng pháp luật, thuật ngữ “cấp dưỡng” vẫn được sử dụng trong một số trường hợp khác, chẳng hạn khi vợ chồng li hôn, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con; khi vợ chồng không cùng sống chung mà một bên ốm đau, bệnh tật không có khả năng lao động, thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng… Đồng thời, trong thực tế đời sống, trong nghiên cứu khoa học và trong áp dụng pháp luật đôi khi không có sự phân biệt giữa quan hệ cấp dưỡng với quan hệ nuôi dưỡng, ngay cả Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng không có sự phân biệt này. Khi nào người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không cùng chung sống với người được nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật hoặc người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng thì mới phát sinh quan hệ cấp dưỡng giữa họ.

Cấp dưỡng là quan hệ tài sản gắn liến với nhân thân của mỗi người nên không thể chuyển giao cho người khác. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó mà không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác

II. Khái niệm cấp dưỡng nuôi con. theo luật hôn nhân 

Cấp dưỡng nuôi con là việc một người phải đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

III. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng

Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình phát sinh khi có các điều kiện sau:

– Người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng;

– Người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng không cùng sống chung với nhau hoặc người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

– Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên hoặc là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu;

– Người có nghĩa vụ cấp dưỡng là người đã thành niên, có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

IV. Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Nghĩa vụ cấp dưỡng có những đặc điểm sau:

– Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ về tài sản mang tính chất đặc biệt là không thể được thay thế bằng nghĩa vụ khác.

Khi người chưa thành niên hoặc người đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình cần được cấp dưỡng thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu, nhằm đảm bảo cuộc sống của họ. Do vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng không thể được thay thế bằng nghĩa vụ khác.

– Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể chuyển giao cho người khác.

Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, là nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân mỗi chủ thể mà không thể chuyển giao cho người khác.

– Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ có đi có lại nhưng không mang tính chất đồng thời và tuyệt đối. Tính chất có đi, có lại thể hiện ở chỗ các chủ thể đều có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau nếu một bên chủ thể rơi vào tình trạng cần được cấp dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng không mang tính chất đồng thời có nghĩa là trong cùng một thời điểm thì chỉ có thể một bên cấp dưỡng cho bên kia, không thể ngược lại là bên kia lại cấp dương cho bên này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không mang tính tuyệt đối bởi nghĩa vụ này không phải luôn xảy ra với các chủ thể mà nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi có những điều kiện nhất định.

Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống, hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ 2014). Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con không có bất cứ sự phân biệt nào giữa con đẻ, con nuôi; con có cha mẹ tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc con có cha, mẹ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình khi không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tập trung vào sự đóng góp tài sản của cha, mẹ để đảm bảo cho quá trình phát triển và hoàn thiện thể chất, tinh thần của con. Cùng với quan hệ nuôi dưỡng, quan hệ cấp dưỡng được xem là một trong những quyền và nghĩa vụ tài sản (gắn với nhân thân) quan trọng giữa cha mẹ và con.

Theo quy định của Luật HNGĐ 2014, quan hệ cấp dưỡng được đặt ra khi người con chưa thành niên hoặc đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình[4]. Cha mẹ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp không chung sống với con hoặc chung sống cùng con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng[5]. Thông thường, cha, mẹ chung sống cùng con để có điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ. Tuy vậy, cũng có những trường hợp trẻ chỉ chung sống với cha hoặc với mẹ. Cha mẹ không cùng nhau chung sống với con khi họ đã ly hôn hoặc hai người không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Lúc này, người trực tiếp chung sống cùng con thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, người còn lại (không chung sống với con) phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Thực tế cho thấy, cha mẹ có thể không (thường xuyên) cùng chung sống dưới một mái nhà với con, nhưng nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn không được đặt ra nếu giữa họ tồn tại mối quan hệ hôn nhân. Luật HNGĐ 2014 không định nghĩa thế nào là việc cha, mẹ “chung sống” cùng với con hoặc ngược lại. Theo chúng tôi, nếu cha mẹ vẫn tồn tại quan hệ hôn nhân thì họ cùng có nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái (vấn đề chỉ là cách thức chăm sóc, nuôi dưỡng con cái của mỗi gia đình có thể khác biệt – thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp). Việc con không chung sống cùng với cha hoặc mẹ nên được nhìn nhận dưới góc độ pháp lý. Cha, mẹ lúc này thường không có sự ràng buộc trong mối quan hệ nhân thân, tình cảm, họ có chỗ ở riêng biệt và việc phải lựa chọn tại một thời điểm cụ thể chỉ sống với cha hoặc mẹ là điều tất yếu.

Ngoài ra, quan hệ cấp dưỡng có thể diễn ra ngay cả khi con chung sống cùng cha, mẹ. Trường hợp cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên là một ví dụ điển hình. Cha, mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Lúc này, ngay cả khi đang chung sống với con, bên cha, mẹ vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Nếu như Luật HNGĐ năm 2000 chỉ quy định cụ thể về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ đối với con khi ly hôn, thì Luật HNGĐ 2014 lại mở rộng các trường hợp phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng. Điều này một mặt đảm bảo quyền lợi của người con (không có sự phân biệt dựa trên tình trạng quan hệ hôn nhân của cha mẹ), một mặt tạo nên sự cân bằng về quyền và nghĩa vụ giữa bên trực tiếp nuôi dưỡng con và bên không cấp dưỡng nuôi con.

Vợ chồng đều muốn nuôi con dù đã thống nhất ly hôn ?

Thống nhất ly hôn nhưng vợ chồng đều muốn nuôi con?

I. Vợ chồng đều muốn nuôi con dù đã thống nhất ly hôn ?

Căn cứ theo điều 81, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc vợ chồng đều muốn nuôi con, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Căn cứ theo quy định trên thì con trên 36 tháng tuổi (trên 3 tuổi), khi ly hôn vợ chồng đều muốn nuôi con, không thoả thuận được với nhau, có tranh chấp về quyền nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho người trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.

Vậy khi ly hôn vợ chồng đều muốn nuôi con thì phải chứng minh mình có điều kiện nuôi con hơn người còn lại. Những điều kiện cần chứng minh là về vật chất và tinh thần như sau:

1. Điều kiện về kinh tế, vật chất:

Khi ly hôn vợ chồng đều muốn nuôi con thì phải chứng minh được mình có đầy đủ các điều kiện về vật chất như: Nơi ăn ở, sinh hoạt hàng ngày, điều kiện học tập của con…các yếu tố này sẽ được xét trên điều kiện về chỗ ở (Có chỗ ở ổn định), thu nhập, công việc ổn định…

Để chứng minh được vấn đề này vợ/chồng cần cung cấp cho Toà án những giấy tờ như: hợp đồng lao động, bảng lương, giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu đất, sở hữu nhà (sổ đỏ), nơi học tập của cháu…

2. Điều kiện về tinh thần:

Các điều kiện về tinh thần bao gồm:

thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi, giải trí, nhân cách đạo đức của cha mẹ. Do đó, ly hôn vợ chồng muốn nuôi con thì phải chứng minh được mình có đủ thời gian để chăm sóc, dạy dỗ, có thời gian cho bé vui chơi, giải trí. Và từ trước tới giờ anh trai bạn là người luôn quan tâm, yêu thương con, là người có đầy đủ đạo đức để nuôi dạy con, không có hành vi bạo lực gia đình…

Khi ly hôn vợ chồng muốn nuôi con mà vợ chồng có công việc và mức thu nhập gần tương đương nhau nhưng 1 trong 2 bên có nhà ở ổn định còn người còn lại phải đi thuê nhà nên rất khó để đảm bảo về nơi ở và điều kiện học tập cho cháu bé.

Xét trên những điều kiện nêu trên rất có thể khi Toà án xem xét điều kiện của các bên Toà án sẽ giao quyền nuôi con cho vợ chồng có điều kiện hơn.

II. Khi nào sẽ bị hạn chế quyền thăm con sau ly hôn ?

Theo Điều 82 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha mẹ khi không trực tiếp nuôi con khi ly hôn:

  1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
  2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
  3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”

Bên cạnh đó, cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 trích dẫn ở trên; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên được quy định tại Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình, trong các trường hợp sau đây:

“a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;

b) Phát tán tài sản của con;

c) Có lối sống đồi trụy;

d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.”

Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 86 Luật hôn nhân và gia đình ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.

Theo đó, người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, bao gồm:

Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ.

– Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định về hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì có quyền đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về gia đinh, về trẻ em hoặc Hội liên hiệp phụ nữ yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

Nếu chồng thường xuyên uống rượu, đánh người khác, có những hành vi vi phạm quy định tại Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình thì vợ có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của thăm nom, chăm sóc con của chồng. Tuy nhiên, nếu bị Tòa án hạn chế quyền đối với con thì chồng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Ngoài ra, hành vi say rượu, chửi bới và đánh vợ thì tùy thuộc vào hành vi, mức độ tội phạm có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 13, Điều 134 Bộ luật hình sự.

Điều 13. Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác.

Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…..”

III. Điều kiện để tòa án phán quyết cho nuôi con sau khi ly hôn?

Theo quy định Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: Vợ chồng không thỏa thuận được với nhau về người trực tiếp nuôi con thì có thể yêu cầu Tòa án cho được nuôi con. Trong trường hợp con dưới 36 tháng tuổi thì về nguyên tắc sẽ giao cho người mẹ là người được quyền trực tiếp nuôi con. Bên cạnh đó Tòa án còn xem xét đến các yếu tố sau đây để đưa ra quyết định:

Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… mà mỗi bên dành cho con, yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của chan mẹ;

Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con, điều kiện cho con vui chơi giải trí, trình độ học vấn… của cha mẹ.

Cơ sở pháp lý: Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”.

IV. Điều kiện để được giao con cho bố nuôi khi ly hôn không?

Theo khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội:

“3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Do đó vợ/chồng được quyền nuôi con nếu vợ/chồng không có thỏa thuận khác hoặc vợ/chồng bị hạn chế về điều kiện để con phát triển về mọi mặt của con.

Khi xem xét ai sẽ là người có quyền nuôi con, Tòa án sẽ căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau với mục đích tìm được người có thể đáp ứng tối đa yêu cầu cho sự phát triển của đứa trẻ. Tòa án sẽ dựa trên 3 yêu tố sau:

+ Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập…các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ;

+ Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn … của cha mẹ.

+ Nguyện vọng của con: Con mong muốn được ở với ai (chỉ áp dụng với con từ đủ 7 tuổi trở lên).
Nếu bạn thực sự yêu thương con mình và có đủ khả năng chứng minh trước tòa rằng mình có thể đem lại cho con mình cuộc sống tốt đẹp hơn thì việc bạn giành được quyền nuôi con là hoàn toàn có thể.

Những điều cần lưu ý: Điều kiện trực tiếp chăm sóc trông nom… như: Điều kiện về nhà ở, về chỗ học…

Các yếu tố để Tòa án xem xét quyết định quyền nuôi con?

Thuận tình ly hôn và thủ tục giải quyết thuận tình ly hôn

Các yếu tố để Tòa án xem xét quyết định việc giành quyền nuôi con khi ly hôn?

1. Các yếu tố quyết định quyền nuôi con sau ly hôn:

Về nguyên tắc, việc nuôi con khi ly hôn do hai bên thỏa thuận, nếu không có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Các điều kiện có thể tham khảo cụ thể như sau:

Chứng minh về tài chính:

Tòa án sẽ xem xét mức thu nhập bình quân hàng tháng của bạn, sự ổn định trong nghề nghiệp, nguồn thu nhập đó được tạo ra có hợp pháp hay không?…

Chứng minh về mặt đạo đức, nhân phẩm:

Tòa án sẽ xem xét cách giáo dục con cái của bạn qua lối sống, cũng như quan hệ của vợ/chồng  đối với gia đình, đối với xã hội, đối với đồng nghiệp. Tình yêu thương của vợ/chồng  dành cho con cũng là một yếu tố để xem xét.

Chứng minh về thời gian chăm sóc, giáo dục con

Tòa án sẽ xem xét điều kiện công việc của vợ/chồng có thường xuyên đi sớm, về muộn, vợ/chồng có đảm bảo để chăm sóc con khi cần thiết hay không?

Các yếu tố quyết định quyền nuôi con khác:

– Các yếu tố về vật chất: vợ/chồng cần chứng minh với tòa án rằng bạn sẽ đảm bảo cho con về nơi ăn, ở, đi lại học tập của con.

– Các yếu tố về tinh thần: Đó là điều kiện vui chơi giải trí giúp con phát triển lành mạnh, trong sáng.

Vợ/chồng cũng có quyền yêu cầu chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu yêu cầu nuôi con của vợ/chồng được tòa án chấp thuận. Điều này được quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và Gia đình 2014 như sau:

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Nếu chứng minh được các điều kiện nêu ở trên thì việc vợ/chồng yêu cầu tòa án xem xét để chấp nhận quyền được nuôi con hoàn toàn có căn cứ để tòa án xem xét, giải quyết.

Việc chứng minh được các điều kiện nêu ở trên là có đầy đủ điều kiện để nuôi dưỡng và chăm sóc con nên người có thể là yếu tố Tòa án xem xét quyết định trao quyền nuôi hai con cho vợ/chồng. Ngoài quyền nuôi con, vợ/chồng có quyền yêu cầu bên chồng hoặc vợ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Theo đó:

Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

2. Chia tài sản sau khi ly hôn?

Theo như điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014

Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng:

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Theo như điều 61 Luật hôn nhân và gia đình 2014

Điều 61. Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình

1. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này.

Mặt khác theo như điều 59 Luật:

Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn:

1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.c

3. Giải quyết vấn đề tranh chấp con cái sau khi ly hôn?

Trường hợp vợ/chồng chưa ly hôn và 1 trong 2 người thường xuyên sang gây sự đòi đánh đập 1 bên chị thì vợ/chồng cần phải báo cho cơ quan công an địa phương nơi chị ở, để họ có các biện pháp ngăn chặn, giáo dục vợ/chồng.

Đồng thời, vợ/chồng cũng phải làm các thủ tục ly hôn để Tòa án sớm giải quyết tình trạng này cho vợ/chồng. Hồ sơ ly hôn bao gồm:

– Đơn xin ly hôn;

– Bản chính Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn;

– Bản sao Hộ khẩu thường trú, tạm trú của vợ và chồng;

– Bản sao Chứng minh thư nhân dân hoặc bản sao hộ chiếu của vợ và chồng;

– Các giấy tờ chứng minh về tài sản: Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở (nếu có)…

– Bản sao giấy khai sinh của con;

Trong đơn ly hôn vợ/chồng nên yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung như: quyền nuôi con thuộc về ai? Nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con của người không trực tiếp nuôi con… Và vợ/chồn cũng nêu rõ những hành vi gây sự đánh đập của vợ/chồng đối với hai người còn lại vì đây cũng là một căn cứ để Tòa án giải quyết ly hôn.

Ai sẽ có quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi sau ly hôn?

Sau khi ly hôn ai sẽ có quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi?

I. Ai sẽ có quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi sau ly hôn?

Căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định như sau:

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Như vậy, để được quyền nuôi con có hai cách để giải quyết:

Thứ nhất: Vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau để vợ là người trực tiếp nuôi dạy, chăm sóc cháu.

Thứ hai: Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau về người trực tiếp nuôi con thì vợ/chồng có thể yêu cầu Tòa án cho vợ/chồng là người được trực tiếp nuôi con vì bé mới 2 tuổi, tuy nhiên, Tòa án còn phải xem xét các yếu tố khác. Cụ thể, tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần để quyết định việc trao quyền nuôi con cho vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn.

II. Ai sẽ nuôi con sau ly hôn?

Điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn thì:

Về nguyên tắc, theo khoản 3 Điều 81, con được 14 tháng tuổi, tức là dưới 36 tháng tuổi nên được giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Tuy nhiên, nếu trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con thì Tòa án sẽ tôn trọng thỏa thuận hoặc giao người cha hay người khác đáp ứng đủ điều kiện để chăm sóc conVì vậy, nếu chứng minh được vợ/chồng không đủ điều kiện về vật chất, cũng như tinh thần và chứng minh người còn lại đủ khả năng chăm sóc cháu thì vợ/chồng có thể được tòa án ra quyết định giao con.

Như vậy, để giành được quyền nuôi con, vợ/chồng cần cung cấp cho Tòa án những căn cứ chứng minh một trong hai người không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con (như thu nhập của vợ, nơi ở của vợ, điều kiện nơi sinh sống, tình cảm của vợ/chồng dành cho con, trình độ văn hóa, cách giáo dục của vợ đối với con…). Đồng thời, cung cấp cho Tòa án những căn cứ chứng minh điều kiện vật chất (nghề nghiệp, thu nhập, nơi ăn ở…) và tình cảm yêu thương, thời gian giành cho con, văn hóa, cách giáo dục con… Sau đó, Tòa án sẽ căn cứ vào những thông tin trên và ra quyết định cuối cùng.

III. Chồng có được quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi nếu xảy ra việc ly hôn?

Trường hợp vợ/chồng không thỏa thuận được về quyền nuôi con thì vợ/chồng cần khởi kiện ra tòa để yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Theo quy định của khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

“3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”